Xu Hướng 6/2023 # Văn Miếu Là Gì 62 # Top 8 View | Xnko.edu.vn

Xu Hướng 6/2023 # Văn Miếu Là Gì 62 # Top 8 View

Bạn đang xem bài viết Văn Miếu Là Gì 62 được cập nhật mới nhất trên website Xnko.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Danh sĩ xứ Thanh trên Bia Tiến sỹ Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Với quan niệm: Hiền tài là nguyên khí Quốc gia! Hoàng đế Lê Thánh Tông đã cho dựng bia đá khắc tên những người thi đỗ, được triều đình ban học vị tiến sỹ – Những tấm bia đá này có tên gọi chung là bia Tiến sỹ dựng tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám.

Du khách trong và ngoài nước đến tham quan Bia Tiến sĩ Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Ảnh: tư liệu

Tham gia biên soạn nội dung văn bia Tiến sỹ là những người học rộng, tài cao được triều đình tín nhiệm. Trong số những người được cử soạn văn bia, xứ Thanh có hai người là Đàm Văn Lễ và Trịnh Cao Đệ.

Bia Tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám là những tác phẩm văn hóa – nghệ thuật phản ánh nghệ thuật điêu khắc đá. Mỗi tấm bia là một tác phẩm nghệ thuật, 82 tấm bia đã tạo nên một “rừng bia”. Những tấm bia này có niên đại rõ ràng, trải dài trong khoảng hơn 300 năm đã phản ánh diễn biến, bước phát triển của nghệ thuật điêu khắc đá trong hơn 3 thế kỷ của vương triều Hậu Lê, trong đó có sự đóng góp của nghệ thuật chạm khắc đá và đá xứ Thanh.

Khảo sát 82 bia Tiến sỹ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám, trong số các vị Tiến sỹ được ghi danh cùng với quê hương bản quán trên 82 văn bia có 125 người quê Thanh Hóa. Con số 125 vị đỗ tiến sỹ (trong 82 khoa thi) chưa phải là toàn bộ số người đỗ tiến sỹ ở Thanh Hóa thời Hậu Lê nhưng đã khẳng định: Cùng với các tỉnh có truyền thống khoa cử như Nghệ An, Nam Định, Hà Nội, Hải Dương, Bắc Ninh… Thanh Hóa được xếp vào số ít các địa phương có nhiều người đỗ Tiến sỹ. Con số này đã làm thay đổi quan niệm cho rằng xứ Thanh là đất của các võ tướng, không phải là đất văn nho.

Số lượng người xứ Thanh đỗ tiến sĩ trong 82 văn bia được phân bổ ở các huyện Nga Sơn, Hậu Lộc, Hoằng Hóa, Quảng Xương, Tĩnh Gia, Hà Trung, Đông Sơn, Thiệu Hóa, Triệu Sơn, Thọ Xuân, Vĩnh Lộc. Trong đó, nổi trội nhất là các huyện Hoằng Hóa (28 người), tiếp đến là Đông Sơn (18 người), Nông Cống (17 người). Trong các huyện này tập trung nhất là các xã Hoằng Lộc (Hoằng Hóa), Đông Thanh (Đông Sơn), Cổ Đôi (Nông Cống). Thực tế đã cho thấy: Hoằng Hóa, Đông Sơn là những huyện có truyền thống khoa cử nhưng đến thời Hậu Lê thì vùng đồng chua, nước trũng (Cổ Đôi – Nông Cống) đã vươn lên thành một vùng có nhiều người đỗ đạt cao. Những luật lệ khuyến học của làng đã đem lại hiệu quả trong học tập, thi cử.

Theo quy định của vương triều, mỗi khóa thi chỉ dựng một bia ghi tên những người đỗ Tiến sỹ. Số liệu thống kê cho thấy trong 82 khóa thi, phần lớn sỹ tử xứ Thanh đều có mặt và đạt kết quả cao, chỉ có 9 khóa thi sỹ tử xứ Thanh không có người đỗ. Đặc biệt có khóa thi sỹ tử xứ Thanh chiếm số lượng lớn, có khóa gần như “độc chiếm” bảng vàng.

Trên tấm bia thứ 16, lập ngày 16-11 năm đầu niên hiệu Thịnh Đức đời vua Lê Anh Tông (1565), trong số 4 người đỗ Đệ nhất giáp Chế khoa thì 3 người xuất thân từ quê hương Thanh Hóa đó là Lê Khiêm xã Bảo Đà, huyện Lôi Dương (Thọ Xuân), Bùi Khắc Nhất (xã Bột Thái, huyện Hoằng Hóa), Đỗ Tế Mỹ, xã Cổ Đôi (huyện Nông Cống).

Cũng khoa thi này, có 6 vị đỗ Đệ nhị giáp Đồng Chế khoa xuất thân thì 2 người là con em Thanh Hóa là Lê Nghĩa Trạch ở Cổ Đôi (Nông Cống) và Hoàng Quốc Thực ở xã Dực Thượng (Quảng Xương).

Khoa thi niên hiệu Quang Hưng thứ 21 đời Lê Thế Tông, có 3 vị đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân thì 2 người quê Thanh Hóa là Nguyễn Thứ – Hoằng Hóa và Lê Bật Tứ – Nông Cống. Cũng trong khóa này có Nguyễn Giới, người huyện Nga Sơn đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân.

Đặc biệt, khoa thi niên hiệu Quang Hưng thứ 12 đời Lê Thế Tông, xứ Thanh độc chiếm bảng vàng, 2 người đỗ Đệ nhị giáp tiến sĩ xuất thân là Lê Nhữ Bật ở Vĩnh Trị (Hoằng Hóa) và Lê Trí ở Tào Sơn (Tĩnh Gia), 2 người đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân là Lương Khiêm Hướng ở Hội Trào (Hoằng Hóa) và Lương Định Túc ở Nhân Cương (Nông Cống).

Trường hợp Trịnh Thiết Trường, vị đại khoa được khắc tên trên 2 tấm bia của 2 khóa thì liền nhau. Ông người An Định, phủ Thiệu Thiên, đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sĩ xuất thân năm Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ 3 (1442). Không bằng lòng với kết quả này, ông tiếp tục dự thi khóa sau (năm Mậu Thìn, niên hiệu Thái Hòa thứ 6) và đã đỗ Đệ Nhất giáp tiến sĩ cập đệ.

Khảo sát 82 văn bia Tiến sỹ ở Văn Miếu Quốc Tử Giám cho thấy nhiều vị tiến sỹ người xứ Thanh xứng đáng tô thắm truyền thống hiếu học của quê hương.

Xã Cổ Đôi là trường hợp nổi trội của huyện Nông Cống. Xã có 9 người đỗ đại khoa, chiếm tới hơn 50% số người đỗ của cả huyện Nông Cống.

Ở xã Đông Thanh (Đông Sơn) có hai chú cháu Lê Khả Trù và Lê Khả Trinh cùng thi đỗ Tiến sỹ.

Hai anh em Đỗ Tất Đại và Đỗ Tế Mỹ ở Nông Cống cùng được khắc tên trên bia Tiến sỹ, Đỗ Tất Đại đỗ Đệ nhất giáp chế khoa xuất thân, khoa thi Giáp Dần niên hiệu Thuận Bình năm thứ 6. Đỗ Tế Mỹ đỗ Đệ nhất chế khoa xuất thân khoa Ất Sửu, niên hiệu Chính Trị năm thứ 8 cùng với Lê Khiêm người xã Bảo Đà (Thọ Xuân) và Bùi Khắc Nhất người Bột Thái (Hoằng Hóa).

Hai cha con Nguyễn Hiệu, Nguyễn Hoãn ở Triệu Sơn cùng thi đỗ Tiến sỹ. Nguyễn Hiệu thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Canh Thìn niên hiệu Chính Hòa 21 cùng với Đặng Quốc Đỉnh người Cát Xuyên (Hoằng Hóa). Nguyễn Hoãn thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến Sỹ xuất thân khoa thi Quý Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 4 cùng với Lê Doãn Giai người Y Bích (Hậu Lộc).

Trong số 126 vị được vinh danh trên văn bia đá trong 82 khoa thi, xứ Thanh có tới 14 vị đỗ đầu trong các khoa thi trong đó: có 1/18 vị đỗ Trạng Nguyên, 4/21 vị đỗ Bảng Nhãn, 3/33 vị đỗ Thám Hoa. Con số này đã khẳng định tài năng, trí tuệ của người xứ Thanh trong các cuộc đua tài của nền học vấn đương thời.

Những Tiến sỹ được vinh danh trên văn bia Tiến sỹ Văn Miếu – Quốc Tử Giám là những người hiền tài, ở những mức độ khác nhau đã có những đóng góp nhất định cho đất nước, quê hương, được sử sách lưu danh.

Nguyễn Văn Nghi, người Đông Thanh (Đông Sơn) là người thông minh, học giỏi, đã viết được những câu “thần cú”. Ông đỗ Đệ nhất giáp chế khoa, khoa thi năm Giáp Dần (1554) đời vua Lê Trung Tông, được phong tặng Tuyên lực công thần, đặc tiến Kim tử vinh lộc đại phu, chức Lại bộ tả thị lang, kiêm Đông các Đại học sỹ, nhập thị Kính diên, tổng tiến công Bộ Thượng thư, tước Thái Bảo. Ông là thầy học của hai vua: Lê Anh Tông và Lê Thế Tông. Khi mất, Nguyễn Văn Nghi được vua phong là “Phúc Thần”.

Hai cha con Nguyễn Hiệu và Nguyễn Hoãn người Triệu Sơn thi đỗ Đệ tam giáp Đồng Tiến sỹ xuất thân đều làm tới chức Tể tướng và là thầy học của chúa Trịnh (Nguyễn Hiệu là thầy học của chúa Trịnh Giang, Nguyễn Hoãn là thầy học của chúa Trịnh Sâm).

Nguyễn Quán Nho người Vãn Hà (Thiệu Hóa) đỗ Đệ tam giáp đồng Tiến sỹ xuất thân khoa Đinh Mùi, niên hiệu Cảnh Trị năm thứ 6. Ông là người nổi tiếng về ý chí, tinh thần vượt khó khăn, nghèo túng để dùi mài kinh sử. Nguyễn Quán Nho được triều đình trọng dụng phong làm Tể tướng Thượng thư 3 bộ: bộ Binh, bộ Lễ, bộ Lại, 3 lần làm Ngự sử đài, 5 lần được cử đi sứ phương Bắc, là trọng thần trải nhiều đời vua (Huyền Tông, Gia Tông, Dụ Tông). Thời gian Nguyễn Quán Nho làm Tể tướng được dân ca ngợi: “Tể tướng Vãn Hà – Thiên hạ âu ca”. Trong chính sử cũng như trong dân gian, nhân dân không chỉ ca ngợi tài năng, đức độ của ông mà còn ca ngợi bà mẹ của ông, người đã vượt lên trên hoàn cảnh nuôi dưỡng, dạy dỗ, rèn luyện nhân cách cho ông từ ấu thơ đến khi làm Tể Tướng. Chuyện kể dân gian về việc hai mẹ con Nguyễn Quán Nho vớt bèo nuôi lợn trong ngày vinh quy bái tổ: “Vinh quy bái tổ sau rổ bèo đầy”, rồi chuyện bà mẹ từ chối tấm áo lụa của quan đại thần Nguyễn Quán Nho để răn dạy con trai không được tham nhũng, bòn rút của dân đến nay vẫn còn mới mẻ.

Cùng mạch đất với nhà sử học Tiến sỹ Lê Văn Hưu là Tể tướng Lê Hy (người xã Đông Khê, huyện Đông Sơn), người nổi tiếng thông minh, học giỏi. Ông đỗ Tiến sỹ khoa Giáp Thìn (1664), đời vua Lê Huyền Tông. Ông đã kinh qua nhiều chức: Tham tụng (Tể tướng), Binh bộ Thượng thư, Trí trung thư giám.

Đóng góp lớn nhất của tiến sỹ Lê Hy là lĩnh vực sử học. Ông là người kế tục Hồ Sỹ Dương “trông coi quốc sử” được triều đình giao cho việc biên soạn quốc sử. Lê Hy cùng với nhóm cộng sự đã biên soạn cuốn Bản kỷ tục biên gồm 19 quyển, biên chép lịch sử từ Huyền Tông Mục Hoàng Đế, niên hiệu Cảnh Trị năm đầu (1663) đến Gia Tông Mỹ Hoàng Đế năm Đức Nguyên thứ 2 (1675). Sau khi công việc hoàn thành, triều đình đã cho khắc in. Đây là phần cuối của bộ Đại Việt sử ký toàn thư. Nếu Lê Văn Hưu với tập Đại Việt sử ký là người đặt cơ sở đầu tiên thì Lê Hy với Bản kỷ tục biên là người khép lại trang cuối của tập đại thành.

Bia Tiến sỹ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám ở Thăng Long (Hà Nội) là di sản văn hóa dân tộc. Di sản tư liệu thế giới này đã khẳng định những đóng góp của nhân tài xứ Thanh trong dòng chảy của văn hóa Thăng Long nghìn năm văn hiến.

lịch mở cửa văn miếu. lịch mở cửa văn miếu quốc tử giám 2019. giá vé vào văn miếu quốc tử giám 2019. giá vé vào văn miếu. địa chỉ văn miếu quốc tử giám. giờ mở cửa văn miếu. giờ mở cửa văn miếu quốc tử giám

Văn miếu Quốc Tử Giám nằm ở số 58 Quốc Tử Giám, quận Đống Đa, Hà Nội.

Văn miếu – Quốc Tử Giám là quần thể di tích đa dạng và phong phú hàng đầu của thành phố Hà Nội, nằm ở phía Nam kinh thành Thăng Long.

Văn miếu – Quốc Tử Giám đã được Thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.

Văn miếu – Quốc Tử Giám với các quần thể kiến trúc gồm: hồ Văn, khu Văn miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn miếu – nơi thờ Khổng Tử và Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam.

Văn miếu được xây dựng từ năm (1070) tức năm Thần Vũ thứ hai đời Lý Thánh Tông (Đại Việt sử ký toàn thư. Văn miếu ngoài chức năng thờ các bậc Tiên thánh, Tiên sư của đạo Nho, còn mang chức năng của một trường học Hoàng gia. Năm 1076, Lý Nhân Tông cho lập trường Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu có thể coi đây là trường đại học đầu tiên ở Việt Nam.

Để giúp người dân cả nước có dịp về Hà Nội, vào tham quan Văn miếu – Quốc Tử Giám, chúng tôi xin thông tin chi tiết về lịch mở cửa, giá vé vào Văn miếu – Quốc Tử Giám 2019 như sau:

Lịch mở cửa Văn miếu – Quốc Tử Giám 2019:

Văn miếu – Quốc Tử Giám mở cửa vào tất cả các ngày trong tuần.

Giờ mở cửa Văn miếu – Quốc Tử Giám cụ thể:

– Mùa Hè (từ 15/4 đến 15/10) từ 7h30 đến 18h

– Mùa Đông (thời gian còn lại): từ 8h00 đến 17h00

Giá vé vào Văn miếu – Quốc Tử Giám 2019 như sau:

Loại vé: 30.000đ/lượt

Giảm 50% (loại vé: 15.000đ/lượt) cho các đối tượng sau:

– Người khuyết tật nặng

– Công dân Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên (xuất trình chứng minh thư).

– Nhân dân ở các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa (theo quy định trong chương trình 135 của Chính phủ).

– Người có công với cách mạng.

– Học sinh, sinh viên từ 15 tuổi trở lên (xuất trình thẻ học sinh, sinh viên)

Miễn vé tham quan:

– Người khuyết tật đặc biệt nặng.

– Trẻ em dưới 15 tuổi

H.Yến

Bia Tiến sĩ tại Văn Miếu

(Cinet)- 82 bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám vinh danh tên tuổi những người đỗ đạt trong các kỳ thi tuyển tiến sĩ triều Lê và Mạc là những di vật giá trị bậc nhất của Di tích, là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ.

(Cinet)- 82 bia đá đặt tại khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám vinh danh tên tuổi những người đỗ đạt trong các kỳ thi tuyển tiến sĩ triều Lê và Mạc là những di vật giá trị bậc nhất của Di tích, là biểu tượng và niềm tự hào của sự thành đạt và trí tuệ.

Ảnh: chúng tôi

Những pho sử đá

82 bia đá khắc tên 1307 lượt Tiến sĩ thi đỗ qua 82 khoa thi dưới triều Lê và Mạc là những di vật giá trị bậc nhất của khu di tích Văn Miếu – Quốc Tử Giám. Đây là những pho sử đá khẳng định niềm tự hào của truyền thống hiếu học của Việt Nam.

Giá trị đặc biệt của bia Tiến sĩ tại Văn Miếu – Quốc Tử Giám chính là bài văn bia (bài ký) bằng chữ Hán chứa đựng rất nhiều thông tin lịch sử. Một bài văn bia thường gồm: Dòng tiêu đề của khoa thi (phần nối giữa trán bia và bài ký) năm tổ chức khoa thi, ca ngợi triều vua đang trị vì, tên các vị quan tham gia tổ chức khoa thi như Đề điệu, Giám thí, Độc quyển, Đằng lục..; cách thức tổ chức thi; họ tên và quê quán của những người thi đỗ; tên nhóm người tham gia dựng bia (soạn, nhuận sắc và viết triện).

Phần ký của văn bia cung cấp nhiều thông tin quan trọng về lịch sử của nền giáo dục, thi cử nước nhà và quan điểm của nhà nước về đào tạo và sử dụng nhân tài. Tư tưởng “Hiền tài là nguyên khí quốc gia” đã được thể hiện rõ trong nội dung các bài văn bia với ý nghĩa vạch ra đường lối chiến lược cho các nhà cầm quyền (xưa và nay) trong quản lý và xây dựng đất nước là phải coi trọng nhân tài; đồng thời xác định rõ trách nhiệm của các nhà trí thức đối với đất nước, đó là đem tài năng ra phục vụ đất nước, đào tạo đội ngũ nhân tài kế tiếp cho đất nước.

Những bài ký trên bia là kết tinh trí tuệ của nhiều thế hệ trí thức, là kinh nghiệm về đạo làm người. Hơn thế, văn bia còn cho chúng ta biết những bài học vô giá về đạo trị quốc, xây dựng và phát triển đất nước luôn phải quan tâm, đào tạo nhân tài. Vai trò của hiền tài đối với quốc gia được khẳng định, nhắc đi nhắc lại trong hầu hết các bài ký, cho thấy đây là một quốc sách, là điểm cốt lõi trong đạo trị quốc. Đây cũng chính là bài học quý cho đương thời và hậu thế.

Nghệ thuật tôn vinh độc đáo

Không phải đến triều Lê nước ta mới có những khoa thi để tìm kiếm nhân tài. Và cũng không phải đến khi bia Tiến sĩ được dựng lên thì thành tựu của sĩ tử mới được ghi nhận và tôn vinh. Lịch sử đã ghi nhận những cách thức vinh danh, khuyến khích sĩ tử “nấu sử sôi kinh” để trở thành nhân tài rất đa dạng như: miễn phu phen, lao dịch cho người có thành tích trong học tập, thi cử; ghi tên Bảng vàng treo cổng kinh thành; Ban mũ áo, ghi tên vào sách đăng khoa lục… Nhưng có thể thấy, việc dựng bia Tiến sĩ đã tác động to lớn đối với sự nghiệp giáo dục đào tạo nhân tài của đất nước, không chỉ với đương thời mà còn cả với các thế hệ mai sau. Được ghi tên trên bia là niềm khích lệ lớn trong việc học tập, rèn luyện để trở thành người có ích cho đất nước và xã hội. Điều này đã được khẳng định trong Văn bia Bia Tiến sĩ khoa thi năm1481: “Cốt để cho bọn cài hốt bên lưng, ra vào nơi cung điện, mắt nhìn, miệng đọc, bồi hồi, ngóng trông, kính mến mà ao ước. Đó là bộ máy để kích động lòng người và là một việc hay có ý nghĩa trọng đạo của đời thịnh đối với nền chính trị và phong hoá quan hệ rất lớn”.

Du khách nước ngoài tham quan bia tiến sĩ. (Ảnh: Đinh Công Hoan)

Những bài ký trên bia còn chỉ ra những bài học, cách thức tu dưỡng để trở thành những con người có ích cho quê hương, đất nước. Những lời khuyên về lối sống, tu dưỡng rất cụ thể, chân thành, bởi đó chính là kết tinh, trải nghiệm của người viết, là tâm huyết đối với hậu thế, với giang sơn đất nước: “Theo hầu trong cung phải giúp đức cho vua, giúp ơn cho dân; trấn nhậm một phương phải làm bình phong phên dậu. Người giữ chức cao phải đem khả năng bàn nói để hết chức phận can gián của mình…” (Văn bia khoa thi năm 1691), “Tuổi già tiết cứng, nêu gương cho phường hậu tiến, hun đúc nên tập tục trung tín liêm sĩ, chớ cậy may mắn lợi dụng vơ vét” (Văn bia khoa thi năm 1760)…

Những bài học, kinh nghiệm sống cha ông, của thế hệ trí dũng, tài đức lưu lại trên bia đá được kiểm nghiệm, minh chứng qua thời gian. Đó là những bài học kinh nghiệm vô cùng quý cho mọi thời đại, trong mọi hoàn cảnh, để phát triển bền vững đất nước.

Ngày nay bia Tiến sĩ ở Văn Miếu – Quốc Tử Giám vẫn có sức hút mạnh mẽ đối với các học giả, du khách, chính khách trong và ngoài nước. Rất nhiều nguyên thủ quốc gia, chính khách quan trọng của các nước trên thế giới đã đến đây và đánh giá cao giá trị và ý nghĩa của những tấm bia Tiến sĩ.

7 điều cần biết khi tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám – Biểu tượng của thủ đô Hà Nội

Được mệnh danh là ngôi trường đại học đầu tiên tại Việt Nam, Văn Miếu Quốc Tử Giám – nơi chứa đựng tinh hoa của những giai đoạn lịch sử phong kiến dân tộc cũng như lưu giữ rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống đất nước.

Văn Miếu được lập ở Hà Nội, bấy giờ là Thăng Long, năm 1070, cách đây hơn 9 thế kỷ.

Năm 1076, vua Lý Nhân Tông thành lập Quốc Tử Giám ở bên cạnh Văn Miếu. Nhà quốc học chính thức đầu tiên của lịch sử giáo dục Việt Nam ra đời từ đó. Nhà vua đã: “Chọn quan viên văn chức người nào biết chữ cho vào Quốc Tử Giám”.

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư…”

Việc lập Văn Miếu Quốc Tử Giám như vậy là nhằm đào tạo lớp quan liêu trị nước, nằm trong phương hướng vươn lên của thời đại.

Năm 1253, vua thứ hai của nhà Trần là Trần Thánh Tông đổi Quốc Tử Giám thành Quốc Học Viện làm nơi giảng dạy cho con em vua quan và những người học giỏi trong cả nước. Chức năng của một trường Quốc học ngày càng nổi bật hơn chức năng của một nơi tế lễ làm cho giá trị lịch sử của Quốc Tử Giám. Văn Miếu cùng ngày càng được nâng cao. Trường Quốc học Giám được nâng dần lên tới mức đại học và chính thức được đạt lên Thái Học Viện. Suốt hơn ba thế kỷ triều Lê trường Quốc học không hề đổi chỗ. Quốc Tử Giám 5 năm đón học sinh khắp nơi vào học và cứ mỗi khoa thi, cửa nhà Thái Học lại treo bảng ghi tên những Tiến sĩ trúng tuyển, dân chúng đất “Trường An” (Thăng Long) lại một lần lũ lượt tới xem. Cảnh nhộn nhịp tưng bừng thật không sao tả xiết.

Cuối Triều Lê, thời Cảnh Hưng, bia vẫn được khắc đều đặn. Dù không còn giữ được đủ bia, nhà bia trường Giám cũng đã lưu lại về sau rất nhiều những công trình điêu khắc giá trị và tư liệu lịch sử quý báu.

Tới thời Nguyễn, các vua nhà Nguyễn đóng đô ở Huế, nhà Quốc học cũng được rời vào Huế. Trường Giám được đổi tên làm Văn Miếu với một chức năng duy nhất là nơi thờ tự “thành hiền” mà thôi.

Tên Quốc Tử Giám không còn được chính thức gọi nữa, nhưng giá trị lịch sử của di tích Quốc Tử Giám chẳng lu mờ. Tên Giám nôm na vẫn được đặt cho phố, cho chợ, và tồn tại cho đến hôm nay.

I. Kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám

Bên trong tường, những mái kiến trúc cổ ẩn hiện dưới cành lá sum suê của những cây cổ thụ mang một cảnh sắc khác hẳn mọi kiến trúc của những dãy phố xung quanh, càng thu hút sự chú ý của mọi khách qua đường.

Dẫu chỉ có như vậy, phạm vi của khu di tích xưa vốn còn vươn qua cả đường Quốc Tử Giám bao gồm cả chiếc hồ mà ngày nay do chưa được sửa sang đã làm cho ta lầm tưởng chỉ là một trong hàng chục chiếc hồ chứa nước bình thường của thành phố.

Chúng ta hãy xem thứ tự từ trước tới sau, từ ngoài vào trong từng bước tìm hiểu dấu tích từ nguyên sơ đến hiện đại của khu di tích lịch sử hiếm có này.

– Văn Hồ

Năm 1863 trong dịp sửa nhà bia Văn Miếu, Văn Hồ đã được một lần tu sửa. Sự việc còn ghi lại rõ ràng trên tấm bia đá dựng ở gõ giữa hồ.

– Bài ký ở Đình bia Văn Hồ

Trước Văn Miếu có hồ lớn. Trong hồ có gò Kim Châu Vào khoảng niên hiệu Cảnh Trị (1668 – 1671). Tham tụng họ Phạm (Phạm Công Trứ) làm 10 bài thơ vịnh Phán Thủy (chỉ nhà Thái học) để ghi lại cảnh đẹp. Lâu ngày cát đọng lại, cỏ dại mọc lan, lòng hồ ngày càng nông cạn thu hẹp. Mùa thu năm Quý Hợi, niên hiệu Tự Đức (1963) tôi cùng Bố chánh họ Đặng (Đặng Tá) dựng nhà bi Tiễn sĩ, sau lại sửa sang khu hồ, mở rộng chỗ hẹp, khơi sâu chỗ nông, phá chỗ rậm rạp cho phong quang để thấy rõ cảnh tri của hồ, của núi, khiến hồ thay đổi trở nên đẹp đẽ. Mùa thu năm Ất Sửu (1865) sứ quan họ Đặng lại xuất tiền nhà dựng đình bằng ngói trên gò. Đình làm xong gọi là đình Văn Hồ. Cho khắc lại 10 bài thơ vịnh Phán Thủy, dặn tôi ghi lại chuyện đó.

Việc đó đáng ghi vậy.

Đệ nhị giáp Tiến sĩ khoa Tân Hợi, thự Bố chánh Hà Nội, Lê Hữu Thanh kính ghi.

Cử nhân khoa Tân Sửu, Án sát Hà Nội, Vọng Đình Đặng Tá kính duyệt.

Phó bảng khoa Nhâm Tuất lãnh Trị huyện 2 huyện Thọ – Vĩnh Phạm Xuan Thạch thừa lệnh kiểm lại.

Tả trấn cơ Hiệp quản Nguyễn Viện, Niết ty thư lại Mai Xuân Bách thừa lệnh làm.

Ngày 15 tháng 8 niên hiệu Tự Đức năm thứ 18 (1865).

Hạt Hạ huyện Vĩnh Thuận, thôn Yên Ninh, Tú tài Trần Quang Luyện kính viết.

-Văn Miếu môn.

Kiểu dáng kiến trúc Văn Miếu môn nhiều nét độc đáo rất đáng lưu ý trong khi nghiên cứu kiến trúc cổ Việt Nam. Nhìn bên ngoài tam quan là 3 kiến trúc riêng biệt. Cửa chính giữa thực chất xây 2 tầng. Mặt bằng hình vuông. Tầng dưới to, tầng trên nhỏ chồng lên giữa tầng dưới, do đó xung quanh thừa ra một hàng hiên rộng, 4 mặt có lan can. Phía bên ngoài tầng dưới chỉ mở có một cửa cuốn, 2 cánh bằng gỗ và mi cửa hình bán nguyệt cũng bằng gỗ chạm nỏi hình đôi rồng chầu mặt nguyệt. Phía bên trong lại mở 3 cửa cuốn không có cánh. Tầng trên làm 8 mái, 4 mái hiên và 4 mái nóc, do đó dáng ngoài nom tựa một kiến trúc 2 tầng, và cả cổng chính có dáng của một kiến trúc 3 tầng. Mái tầng trên làm cong lên ở 4 góc. Bờ nóc cũng có đắp đôi rồng chầu mặt nguyệt. Tầng trên không có treo chuông khánh.

Phía ngoài cửa cổng có 2 đôi câu đối lề không rõ niên đại, tới nay vẫn còn rõ nét chữ.

Câu đối thứ nhất:

1a. Đại quốc bất dịch giáo, bất biến tục, thả tôn sùng chi, diệc tín tư văn nguyên hữu tự.

1b. Ngô Nho yếu thông kinh, yếu thức thời, vô câu cố dã, thướng tư thánh huấn vĩnh tương dôn.

Dịch nghĩa.

Nước lớn trong giáo dục, giữ thuần phong, đạo được tôn sùng, tin tưởng tư văn nguyên có gốc.

Nhà Nho phải thông kinh, phải thức thời, chớ nên cố chấp, những lời thánh huấn phải ghi lòng.

Phía trong cổng một đôi câu đối nề khác cũng không có niên đại.

2a. Sĩ phu báo đáp vị hà tai! Triều đình tạo tựu chi ân, quốc gia sùng thượng chỉ ý.

2b. Thế đạo duy trì thi thử nhi! Lễ, nhạc, y, quan sở tụy, thanh danh vạn vạt sở đô.

Dịch nghĩa:

Sĩ phu còn nhiều báo đáp, ơn triều đình đào tạo, ý nhà nước tôn sùng.

Thế đạo nhờ đó duy trì chốn lễ nhạc, y quan, nơi thanh danh vạn vật.

– Đại Trung môn .

Cảnh trí khu vực thứ 2 này không khác gì mấy ở khu vực thứ nhất. Vốn cũng chỉ là những bãi cỏ, trồng ít cây cổ thụ rất cao tuổi đã cằn cỗi (hiện nay đã được trồng thêm nhiều cây mới theo hàng lối quy củ hơn).

Việc lắp lại một khu vực chỉ có cây, có cỏ, việc làm thêm dãy tường ngăn và làm thêm 1 lớp cửa ra vào như thế này đã làm cho công trình sư thiết kế rất thành công trong ý đồ tạo nên cảnh thâm nghiêm, tĩnh mịch của khu vực kiến trúc.

– Khuê Văn Các

Khu vực thứ 2 két thúc ở bức tường ngăn ngang nối cửa Bi văn, gác Khuê văn và cửa Súc văn.

Bốn đôi câu đối chạm vào tường gỗ gác Khuê Văn được dịch nghĩa như sau:

1a. Sao Khuê trời sáng, văn minh rộng

1b. Sông Bích xuân sâu, mạch đạo dài

2a. Triều ta tô điểm nhiều văn trị

2b. Gác đẹp văn hay đón khách xem

3a. Bắc Đẩu soi thành nhiều khi tốt

3b. Đầm thu bóng nguyệt sáng lòng xưa

4a. Nước lễ nghĩa nghìn năm văn hiến

4b. Phủ đồ thư một mối thánh hiền.

Gác Khuê Văn vốn là nơi xưa kia dùng để họp bình những bài văn hay của các sĩ tử đã thi trung khoa thi hội.

Cửa Bi văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Thánh Đức bên trái Bi văn có nghĩa là trang sức nên vẻ đẹp. Ý nói văn chương trau chuốt sáng sua, có sức truyền cảm thuyết phục con người.

Cửa Súc văn kết thúc con đường lát gạch nhỏ chạy từ cửa Đạt Tài bên phải Súc Văn có nghĩa là văn chường hàm súc phong phú, có khả năng nuôi dưỡng vẻ đẹp của tâm hồn.

Hai cửa này cùng với gác Khuê Văn đồng thời mở đầu hco khu vực thứ ba, khu vực giếng Thiên Quang và 2 vườn bia Tiến sĩ.

– Giếng Thiên Quang

– Bia Tiến sĩ

Có lẽ di tích có giá trị bậc nhất ở đây là 82 tấm bia Tiến sĩ dựng ở 2 bên phải trái của giếng Thiên Quang, mỗi bên 41 tấm dựng thành 2 hàng ngang, mặt bia đêu quay về phía giếng.

Cả 2 bên, giữa mỗi vườn bia xây một tòa đình vuông, 4 mặt bỏ trống, nền cao, giữa nền có bện, cửa đều trông thẳng xuống giếng. Đây là 2 tòa đỉnh thờ bia. Xưa kia hàng năm xuân thu nhị kỳ trong Văn Miếu là lễ tế thì ở đây cũng sửa lễ vật cúng bái các vị tiên nho của nước ta mà quí tính cao danh còn khắc trên bia đá. Trong 82 tấm bia còn lại tới ngày nay, tấm sớm nhất dựng vào năm 1484, khắc tên các vị Tiến sĩ đỗ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 (1442) tấm cuối cùng dựng vào năm 1780, khắc tên Tiến sĩ đỗ khoa Kỷ Hợi, niên hiệu Cảnh Hưng năm thứ 40 (1779). Từ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo năm thứ 3 tới khoa cuối cùng là khoa Đinh Mùi niên hiệu Chiêu Thống năm thứ nhất (1787) tính cho đủ phải tới 124 khoa thi đình, nếu chỉ kể các khoa thi Tiến sĩ, không kể các khoa Đông Các và Chế khoa thì cũng phải 117 khoa, và theo đúng điển lệ triều Lê thì phải lập đủ 117 tấm bia đề tên Tiến sĩ. Thế nhưng trải qua bao cơn binh lửa, vật đổi sao dời, số bia hiện có chỉ còn 82 tấm. Nhiều tấm ngày nay chữ đã mờ không sao đọc nổi. Nhiều tấm bia nọ lắp vào rùa kia, nhiều tấm nứt vỡ phải gắn chắp lại. Tháng 4 năm 1976 Viện Khảo cổ học phối hợp với phòng Bảo tồn bảo tàng, sở Văn hóa Thông tin Hà Nội đã khai quật được thêm một con rùa đá đề bia chìm sâu dưới lòng hồ cạnh Khuê Văn Các. Thân bia chưa thấy, song còn rùa để bia đã nâng con số bia Tiến sĩ lên số 83. Non 5 thế kỷ chuyện nương dâu bãi bể tất chẳng tính hết.

Những năm thực dân Pháp xâm lược tạm chiếm Hà Nội, 2 vườn bia có lúc hoang vắng, cỏ cao lụt đầu làm cho có nhà nghiên cứu muốn vòa tìm tư liệu mà phải “rụt chân lại, dùng dằng, nấn ná…”.

– Đại Thành môn.

– Ngọc Thành môn và Kim Thành môn

Qua cửa Đại Thành là vào khu vực thứ tư, khu vực chính cuả di tích Quốc Tử Giám – Văn Miếu, Hà Nội. Cũng như cửa Đại Trung, cửa Đại Thành là một kiến trúc 3 gian với 2 cột hiên trước sau và 1 hàng cột giữa. Hàng cột giữa đỡ sà nóc, đồng thời cũng là hàng cột để lắp cửa. Ba gian đều được lắp cửa 2 cánh. Chính giữa, trên giáp nóc có treo một bức hoành khắc 3 chữ “Đại Thành Môn” (cửa Đại Thành) theo chiều ngang, đọc từ phải sang trái. Bên phải 2 hàng chữ nhỏ dọc khắc “Lý Thánh Tông, Thần Vũ nhị niên, Canh Tuất thu, bát nguyệt phụng kiến”, có nghĩa là: “Tháng 8, mùa thu năm Canh Tuất, niên hiệu Thần Vũ năm thứ 2 đời Lý Thánh Tông vâng sắc xây dựng. Bên trái 1 hàng chữ dọc khắc. “Đồng Khánh tam niên, Mậu Tý trọng đông đại tu “có nghĩa là “tháng 11 năm Mậu Tý niên hiệu Đồng Khánh năm thứ 3 đại tu”.

– Văn Miếu. Tả vu và Hữu vu

Bước qua cửa Đại Thành là tới một sân rộng mênh mang lát gạch bát tràng. Hai bên phải trái của sân là 2 dãy Hữu Vu và Tả vu. Chính trước mặt tòa Đại Bái Đường rộng rãi, to lớn và thâm nghiêm trải suốt chiều rộng của sân nối giáp với đầu hồi của Tả Vu, Hữu Vu 2 bên, tạo thành một cụm kiến trúc hình chữ U cổ kính và truyền thống. Sau Đại Bái và song song với Đại Bái, tòa Thượng Điện có quy mô tương tự cả về chiều cao lẫn bề rộng, với Đại Bái là kiến trúc chấm chót của khu vực thứ 4. Đại Bái đường nối với Thượng Điện bằng một Tiểu Đình hình vuông. Nếu tách riêng cụm 3 kiến trúc này ra mà nói thì chúng được xây dựng theo hình chữ công (I) mà Tiểu đình chính là nét sổ giữa và Đại Bái, Thượng Điện là 2 nét ngang trên và dưới.

Hai gian đầu hỗi cũng có 2 khám lớn xếp chầu vào gian giữa, thờ Thập triết gồm những vị: Mẫu Tử, Nhiễm Tử, Đoan Mộc Tử, Trang Tử, Bốc Tử, Hữu Tử, Tê Tử, Ngân Tử, Suyền Tôn Tử, Chu Tử.

Cũng như Thượng Niên, Đại bái đường mang đậm phong cách kiến trúc thời Hậu Lê, kẻ bảy giản đơn không chạm trổ cầu kỳ, chồng đấu làm theo kiểu đấu đỡ cột chồng rất Việt Nam, những đầu đao mái cong nhẹ, ngói mũi lợp kiểu vẩy rồng, những nơi có chạm trổ rồng mây mang đúng phong cách nghệ thuật của thời Trung Hưng về sau, nói chung kiến trúc có sắc thái giản dị nhưng chắc chắn, thanh nhã mà uy nghiêm, một sắc thái Việt Nam riêng biệt rất dễ dàng nhận thấy, khác hẳn với phong cách kiến trúc đồng thời cuả những công trìnhở các nước láng giềng. Đôi rồng chầu mặt nguyệt gắn mảnh đồ sứ men màu trên đỉnh bờ nóc, chắc chắn được làm vào thời Nguyễn, có làm giảm đi ít nhiều giá trị cổ kính của kiến trúc song không sao át nổi đặc điểm chung của niên đại thời Lê.

Tả Vu và Hữu Vu đều làm 9 gian. Xưa kia Tả Vu và Hữu Vu đều mỗi bên xây 5 bệ kê 5 khám thờ Thất thập nhị hiền. Kiến trúc cũ đã bị phá hủy sạch cả, kiến trúc hiện còn là sản phẩm của lần trùng tu thời gần đây. Bệ thờ, khám thờ cũ không còn, Tả hữu vu nay cũng chẳng dùng để thờ tự, dáng dấp kiến trúc không có vị cổ kính như Đại Bái và Thượng Diện, nhưng do vẫn làm trên nền cũ, phần nào phỏng theo kiểu cũ mà làm và hiện lại dùng làm nơi trưng bày các di vật lịch sử và cách mạng của kinh đô Thăng Long – Đông Đô – Hà Nội cho nên cũng góp phần quan trọng vào cảnh trí chung của cả khu di tích.

– Đền Khải Thánh – Quốc Tử Giám

Đền Khải Thánh là nơi thờ cha mẹ Khổng Tử tức là Thúc Lương Ngột và Nhan Thị.

Kiến trúc đền Khải Thánh sơ sài hơn song cũng có Tả Vu, Hữu Vu 2 bên và đền thờ ở giữa.

Đền Khải Thánh, xưa vốn là Quốc Tử Giám, nơi rèn đúc nhân tài cho nhiều triều đại.

Khổng Tử là người Trung Quốc. Nho giáo là sản phẩm bắt nguồn từ Trung Quốc. Chế độ dựng Văn Miếu thờ Khổng Tử cũng do Trung Quốc chế định.

Về mặt kiến trúc cũng vậy, bàn tay người thợ Việt Nam đã tạo cho Quốc Tử Giám – Văn Miếu một sắc thái Việt Nam, một bố cục hoàn toàn khác hẳn.

Khu Khải Thánh ở Khúc Phụ, xây dựng ở bên trái khu thờ Khổng Tử; ở Hà Nội lại đặt đằng sau và chính cũng là nơi trường Giám của những triều đại cũ.

Nếu đi sâu vào từng kiến trúc từ cột kèo, chồng đấu, cho tới những bức ván chạm trổ thì một Trung Quốc, một Việt Nam không sao lẫn nổi.

Bạn có biết “Văn Miếu quốc tử giám thờ ai & ý nghĩa?”

Hiện nay, nơi đây đã được thủ tướng chính phủ Việt Nam đưa vào danh sách xếp hạng 23 di tích quốc gia đặc biệt.

Quần thể kiến trúc Văn Miếu – Quốc Tử Giám bao gồm: hồ Văn, khu Văn Miếu – Quốc Tử Giám và vườn Giám và kiến trúc chủ thể là Văn Miếu – THỜ KHỔNG TỬ và Quốc Tử Giám – trường đại học đầu tiên của Việt Nam.

Mỗi lớp không gian đó được giới hạn bởi các tường gạch có 3 cửa để thông với nhau. Từ ngoài vào trong có các cổng lần lượt là: cổng Văn Miếu, Đại Trung, Đại Thành và cổng Thái Học.

Với hơn 700 năm hoạt động đã đào tạo hàng nghìn nhân tài cho đất nước. Ngày nay, Văn Miếu Quốc Tử Giám là nơi tham quan của du khách trong và ngoài nước.

Ngoài Khổng Tử, Văn Miếu Quốc Tử Giám thờ ai?

Ngoài ra Văn Miếu Quốc Tử Giám còn thờ hiệu trưởng trường đại học đầu tiên – Văn Miếu Quốc Tử Giám – Chu Văn An.

Chu Văn An đã nổi danh từ những năm tháng mở trường dạy học ở quê nhà với “học trò đầy cửa”. Và cũng chính do tài năng, nhân cách, phương pháp đào tạo học trò mà Thầy đã được vua Trần Minh Tông (1314-1329) mời đến Thăng Long giữ chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp và dạy cho Thái tử Trần Vượng (tức vua Trần Hiến Tông sau này).

Học viên PVF tham quan Văn Miếu Quốc Tử Giám

Ngày 9/6, học viên PVF đã có chuyến tham quan tại Văn Miếu Quốc Tử Giám – một trong những di tích lịch sử độc đáo được xếp hạng di tích quốc gia đặc biệt.

Tại đây, học viên được tìm hiểu về lịch sử, văn hoá cũng như kiến trúc của dân tộc. Các em cũng đã được tham quan hoạt động “xin chữ- cho chữ” đây là một nét đẹp trong văn hoá người Việt qua đó các em hiểu thêm, yêu thêm lịch sử, văn hoá Việt Nam.

Ngoài việc học chính khóa tại trường, học viên PVF còn được trải nghiệm cuộc sống tinh thần phong phú với hệ thống thư viện đa phương tiện và sinh hoạt văn hóa đa dạng. Chúng tôi xây dựng kế hoạch “Trang sách kết nối thế giới đỉnh cao” chọn đọc, dịch và phát hành các cuốn sách hay về bóng đá đỉnh cao, về các nhân vật và các đội bóng huyền thoại, có khả năng truyền cảm hứng, dẫn dắt cảm xúc hướng đến vẻ đẹp của bóng đá và những giá trị thẩm mỹ, giá trị tinh thần tốt đẹp của bóng đá và của thể thao thế giới, từ đó tạo nên những cầu thủ biết đọc.

Cầu thủ PVF sẽ tham gia những hoạt động phù hợp và định kỳ tại Ttrung tâm văn hóa Nghệ thuật đương đại Vincom – VCCA để khơi dậy và bồi đắp tri thức, hiểu biết, cảm thụ về nghệ thuật và cái đẹp. Hàng quý, PVF tổ chức những chuyến đi thực tế như “Thăng Long – Bí mật từ lòng đất” hay “Đền Hùng- Hành trình kết nối tâm linh nguồn cội”,… dưới sự dẫn dắt của những chuyên gia văn hóa – lịch sử nổi tiếng giúp các cầu thủ hiểu và yêu về lịch sử truyền thống dân tộc.

Lễ dâng hương tại Văn Miếu Quốc Tử Giám nhân kỷ niệm 30 năm thành lập

Cách đây 30 năm, ngày 21.2.1989, Trung tâm Đại học dân lập Thăng Long – tiền thân của Đại học Thăng Long ngày nay đã chọn Văn Miếu – Quốc tử Giám, trường Đại học đầu tiên của Việt Nam làm nơi khai giảng khóa học đầu tiên của mình. Trong buổi lễ khai giảng đơn giản nhưng trang trọng và đặc biệt đáng nhớ này, có sự chứng kiến của cố đại tướng Võ Nguyên Giáp, Bộ trưởng đại học và trung học chuyên nghiệp Trần Hồng Quân và Chủ nhiệm Ủy ban giáo dục thanh, thiếu niên nhi đồng của Quốc hội Trần Thị Tâm Đan. Ban lãnh đạo cùng các vị đại biểu, các thầy, cô giáo và các em sinh viên đã làm lễ dâng hương cầu mong các bậc tiền nhân phù hộ cho sự phát triển của ngôi trường ngoài công lập đầu tiên của cả nước vừa mới ra đời và đang còn gặp vô vàn khó khăn, thiếu thốn.

Nhờ những nỗ lực phi thường của các thế hệ người Thăng Long, ngôi trường này không chỉ vượt qua những thử thách ban đầu để đứng vững, mà còn không ngừng lớn mạnh, vươn lên trở thành một cơ sở đào tạo đại học có uy tín và đang đóng góp đáng kể cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Sau 30 năm, Đại học Thăng Long tự hào đã có một cơ sở vật chất khang trang, hiện đại, không thua kém nhiều trường đại học lớn của Việt Nam và khu vực Đông Nam Á, với một đội ngũ đông đảo cán bộ, giảng viên, công nhân viên nhiệt huyết và có năng lực sát cánh cùng nhau xây dựng nên môi trường giáo dục trong sáng, lành mạnh hướng tới các chuẩn mực tiên tiến của thế giới. Từ mái trường này, nhiều thế hệ sinh viên đã trưởng thành, vươn cánh bay xa và đang đóng góp tài năng của mình trên nhiều lĩnh vực của đất nước.

Không thỏa mãn với những thành tựu 30 năm trưởng thành của mình, các cán bộ, giảng viên và công nhân viên Đại học Thăng Long hôm nay nguyện trước trời đất, Tổ tiên sẽ một lòng chung tay góp sức cùng Ban Lãnh đạo tiếp tục xây dựng ngôi trường này tiến bước mạnh mẽ hơn nữa trên lộ trình 100 năm trở thành một trong những trường đại học tiên tiến, hiện đại nhất không chỉ của Việt Nam, mà còn của cả khu vực và thế giới, xứng đáng với thương hiệu mà mình được mang trong giá trị văn hiến nghìn năm Thăng Long – Hà Nội.

Du Lịch Biên Hòa, Đừng Quên Tham Quan Văn Miếu Trấn Biên.

Ở Đồng Nai có một di tích lịch sử quý giá được mọi người hay tới tham quan là Văn Miếu Trấn Biên.

Bạn có biết: Ở đất trời phương Nam cũng có một Văn Miếu cổ kính hệt như Văn Miếu Quốc Từ Giám ngoài Hà Nội không?

1.Hành trình tham quan Văn Miếu Trấn Biên đầy trắc trở:

Năm này, Thảo đã có một quyết định hết sức táo bạo là BỎ VIỆC để đi XUYÊN VIỆT.

Hành trình chính thức bắt đầu từ ngày Tết dương lịch 2021 từ Sài Gòn.

Lịch trình hơi lòng vòng vì Thảo muốn đi tham quan lại một số tỉnh trong Nam này.

Dự định sau Tết ta sẽ phi xe ra Bắc để Ta ba lô ngoài đó.

Những ngày đầu tiên, từ Sài thành Thảo chạy vòng lên Tây Ninh du hí hết đi tòa thánh Tây Ninh rồi leo chùa bà Đen ngắm cảnh.

Ăn uống sập mặt ở Tây Ninh rồi tới hồ Dầu Tiếng toan cắm trại nhưng chổ này đang sửa đường, không cho vào.

Vậy là Thảo đành ngậm ngùi lăn bánh tới Đồng Xoài Bình Phước xem nơi ấy có gì chơi không?

Bình Phước thì nhiều chổ du lịch sinh thái thiệt. Thảo cũng chỉ kịp lang thang Đồng Xoài 24 tiếng đồng hồ trước khi xuống Bình Dương thăm bạn hiền.

Ở Bình Dương, vì muốn đi phượt theo đường biển nên Thảo vòng ra biển Long Hải ( Vũng Tàu). Từ đấy, cứ men theo đường biển mà chạy.

Không quên ghé Biên Hòa thêm một lần nữa.

Biên Hòa là thành phố của tỉnh Đồng Nai.

Khỏi phải khoe, Đồng Nai thì có nhiều chổ du lịch ai cũng biết đến rồi.

Từ hồi sinh viên, năm nào bạn bè Thảo cũng kéo nhau về các điểm du lịch ở Đồng Nai. Nào là khu du lịch thác Giang Điền, Bò Cạp Vàng, Vườn Xoài, Bửu Long…

Còn lần này Thảo chỉ ghé thành phố Biên Hòa chơi thôi.

Vậy Biên Hòa có chổ nào chơi?

Search Google tìm kiếm, vô tình Thảo bắt gặp hình ảnh những mái nhà xưa mới ngói xanh nằm trong một khu du tích.

Tìm hiểu kĩ Thảo mới biết đây là Văn Miếu Trấn Biên.

Đã đến Biên Hòa nhiều lần nhưng trước đó Thảo cũng chưa hề đến tham quan Văn Miếu Trấn Biên lần nào.

Vậy là lần này, phải đến thăm Văn miếu một lần cho biết.

Hình ảnh Văn Miếu ở trên mạng lung linh không khoảng chết. Sẵn tiện Thảo cũng chưa đi tham quan văn miếu bao giờ, kể cả văn miếu Quốc Tử Giám.

2.Địa chỉ Văn Miếu Trấn Biên:

May mắn thay, Văn miếu này nằm ngay trong lòng thành phố Biên Hòa.

Văn Miếu cách thành phố Hồ Chí Minh khoảng 33km.

Từ thành phố mới Bình Dương tới Văn Miếu khoảng gần 30km.

Đoạn đường 30 km nhưng chạy cả tiếng đồng hồ vì đường đông xe. Từ 6 giờ sáng còn ngoái ngủ, Thảo đã chạy xe qua đấy cho mát.

Văn Miếu Trấn Biên nằm cách khu du lịch Bửu Long có 5km.

Nhưng dường như mọi người đến tham quan du lịch ở Bửu Long nhiều hơn là Văn Miếu.

Trên đường từ Bình Dương qua Biên Hòa, có thể đi bằng đường nhựa hoặc qua đò. Bến đò Trạm là nơi phân cách giữa Bình Dương và Biên Hòa.

Thảo đi sớm, đi lần đầu nên sợ chờ đò lâu. Nhưng hỏi ra mới biết đò ở đây hoạt động từ 5 rưỡi sáng, đi đò rất thoải mái và không phải chờ đò lâu.

Văn Miếu mở cửa từ 7 giờ sáng.

7 rưỡi Thảo có mặt ở Văn Miếu và là vị khách tham quan đầu tiên.

Đi lòng vòng tham quan, chụp ảnh tầm 1 tiếng đồng hồ mà vẫn còn muốn ở lại để ngắm cảnh.

Bất ngờ, có một đoàn rất đông sinh viên trường đại học cũng vừa đến tham quan văn miếu nên Thảo quyết định ra về.

3.Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng vào năm nào?

Văn Miếu đầu được xây dựng đầu tiên năm 1715.

Tuy nhiên, sau đó do chiến tranh tàn phá khá nặng nề.

Lúc đầu Thảo hơi thắc mắc vì lịch sử Văn Miếu hơn 300 năm nhưng nhìn còn khá nguyên vẹn.

Văn Miếu đã được trùng tu, xây dựng lại và chính thức hoàn thành khang trang vào năm 2002.

Văn Miếu vẫn giữ được những nét kiến trúc xưa và vẻ trầm mặc hoài cổ.

4.Tham quan Văn miếu Trấn Biên có gì?

Văn miếu khá rộng rãi. Với diện tích khoảng 2 hecta.

Phía trước Văn Miếu là khu công viên với một hồ nước rất rộng, nước trong vắt. Đứng trên đường còn có thể thấy từng đàn cá bơi lội tung tăng dưới nước.

Lúc đầu, Thảo còn quánh gà chạy vô vườn bonsai Dona ngay sát Văn Miếu.

Số là khu văn miếu rất rộng nên Thảo ban đầu chưa biết cổng vào. Mà vừa đi thì thấy khu vườn có mái ngói xanh kiểu cổ rất đẹp nên cứ ngỡ đã tới Văn Miếu. Chạy vô mới biết là vườn bonsai.

Văn Miếu Trấn Biên thờ những ai?

Văn Miếu thờ Khổng Tử và các danh nhân văn hóa nước Việt.

Khổng Tử là ông tổ của đạo Nho. Hầu hết các Văn Miếu đều có thờ Khổng Tử.

Văn Miếu Trấn Biên có gì đặc biệt?

Văn miếu này đươc xem như là “Quốc Tử Giám” của miền Nam. Đây là Văn Miếu ĐẦU TIÊN ở xứ đàng trong.

Bên cạnh Văn Miếu là một trường học của tỉnh Biên Hòa.

Văn Miếu Trấn Biên được xây dựng dựa theo Quốc Tử Giám ở Hà Nội.

Văn Miếu nổi bật với những vòm mái uốn cong đặc trưng. Được lợp bởi ngói lưu ly màu xanh ngọc từ gốm tráng men. Mang lại cảm giác trang nhã, hoài cổ cho những vị khách đến tham quan Văn Miếu.

Bước vào cổng Tam quan là đến Khuê Văn Các.

Có một hồ nước vuông vức nằm ngay giữa khuôn viên. Còn được gọi là hồ Tịnh Quang.

Những bậc thang thấp dần dẫn xuống hồ được lót bằng gạch màu đất nung.

Một vài mảng rêu xanh len lỏi giữa những khe gạch khiến Thảo nhớ tới giếng làng ngày xưa. Nơi mà các cô, các mẹ thường quảy đôi gàu đến gánh nước đem về nấu ăn.

Giờ đây, giếng làng chắc đã không còn nữa. Và thế hệ trẻ như Thảo chắc cũng chỉ biết đến giếng làng qua những thước phim truyền hình.

Bởi vậy, Văn Miếu Trấn Biên đã trở thành một nơi tham quan và học tập ngoại khóa quý giá cho các bạn học sinh, sinh viên.

Tham quan khu nhà thờ chính, dễ dàng thấy được kiểu kiến trúc NHÀ BA GIAN thời xưa.

Ở gian giữa có bàn thờ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trên tường có biểu tượng trống đồng sáng chói.

Bên trái là nơi thờ các danh nhân văn hóa Việt Nam như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn,…

Bên phải thờ danh nhân đất Nam Bộ như V õ Trường Toản, Nguyễn Đình Chiểu, Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhân Tịnh, Lê Quang Định, Bùi Hữu Nghĩa, Nguyễn Thông…

Ngoài ra còn có Bia Tiến sĩ bằng đá. Thảo nghe nói ở Quốc Tử Giám đầu rùa đã trơn nhẵn. Vì có rất nhiều người đến sờ đầu rùa để cầu chúc học hành, thi cử thuận lợi.

Ngoài ra, trong gian thờ, còn có 18 kg ĐẤT và 18 lít NƯỚC lấy từ đền Hùng Phú Thọ. Để tưởng nhớ 18 đời vua Hùng đã có công dựng nước.

Tham quan Văn Miếu Trấn Biên giúp Thảo thêm tựu hào về truyền thống dân tộc.

Nếu có thời gian, đến Biên Hòa đừng quên tham quan Văn Miếu để hiểu thêm về nguồn cuội của chính mình.

Tác giả: Thảo Thảo

Sao Kế Đô Là Gì, Văn Khấn Và Cúng Giải Hạn Sao Kế Đô

Ý nghĩa Sao Kế Đô là gì, mang nghĩa tốt hay xấu?

Để biết được sao Kế Đô là tốt hay xấu thì cần xác định xem nó là Hung tinh hay Cát tinh. Sao Kế Đô là một hung tinh mang lại sự buồn khổ, chán nản, thờ ơ. Sức mạnh của chòm sao Kế Đô vô cùng lớn, ảnh hưởng từ trường của hung tinh này sẽ khiến bản mệnh cảm thấy bất an, luôn tự ti và hoài nghi chính bản thân mình.

Hung tinh Kế Đô chủ về bệnh tật, tai họa người âm phá rối, dù cho mệnh chủ sức sống dồi dào nhưng lại tự gây chuyện rồi gặp đại hạn, thương tật bất ngờ.

Nhìn chung sao Kế Đô chiếu mệnh nam nữ đều là xấu cả, nhưng người mang âm khí sẽ có thể bị nặng hơn, tinh thần thường bất ổn, và hay buồn phiền chán nản. Gia đạo bất an, phát sinh tang sự, phải hay xa xứ lông bông. Nam giới gặp sao này phải đi xa mới có tiền bạc còn quanh quẩn trong nhà sẽ dễ gặp tai ương, bị nữ giới hại.

Nữ giới cực kỵ sao Kế Đô, khi bị sao này chiếu mạng thì hay gặp những chuyện không vui. Nhưng nếu mang bầu, mang thai mà lại gặp sao Kế Đô thì ngược lại, dữ sẽ hóa lành. Bởi theo quan niệm người xưa thì phụ nữ có bầu bị sao Kế Đô chiếu mệnh sẽ không ảnh hưởng xấu mà trái lại còn tốt cho cả chồng lẫn thai nhi trong bụng.

Kế Đô tọa mệnh thì ví như vạn sự khởi đầu nan. Đầu năm bình thường, giữa năm xuất chúng, đầu năm đại hung thì cuối năm sẽ đại cát. Thế nên gia chủ cứ nên hi vọng, mong mỏi một năm tốt đẹp thì hơn

Trong dân gian xưa vẫn lưu truyền một bài thơ về tính chất của sao Kế Đô như sau:

Sao Kế Đô thuộc vào hành gì, hợp và kỵ màu gì, tháng mấy?

Sao Kế Đô là một hung tinh thuộc vào hành Thổ, nên chiếu theo ngũ hành có quan hệ tương sinh với Hỏa, bình hòa với Thổ, và tương khắc với Mộc, sinh xuất với Kim. Do đó:

Sao Kế Đô kỵ những màu thuộc hành Kim là trắng, bạc, vàng ánh kim và hành Mộc là màu xanh lá cây.

Sao Kế Đô kỵ nhất là vào tháng 3 và tháng 9 âm lịch, hạn gây ra khiến cho cả gia đình bao trùm một không khí ưu phiền, lo lắng. Người gặp sao này thì chớ nên tham lam của cải, tình ái, tài lợi, tửu sắc mà lại rước họa vào thân. Nếu ăn ở ngay thẳng, hiềm hòa, làm việc thiện thì có thể hóa giải được tai ương.

Sao Kế Đô hợp với các màu thuộc hành Hỏa là màu Hồng, đỏ, tím và màu thuộc hành Thổ là nâu, vàng đất.

Phải cúng dường sao Kế Đô vào ngày nào hàng tháng?

Từ xa xưa người ta đã quan niệm rằng dù là gặp sao tốt hay sao xấu thì cũng nên làm lễ hóa giải và nghin sao. Sao Kế Đô là một hung tinh nên cần phải làm lễ giải hạn để tâm lý được vững vàng. Có thêm niềm tin trong cuộc sống, mong muốn tránh được những rủi ro và gặp nhiều may mắn.

Hướng dẫn cúng sao Kế Đô hóa giải hạn thời gian thích hợp nhất là vào lúc sao chiếu sáng tròn nhất, hay còn được gọi là lúc sao đăng viên. Ngày sao Kế Đô đăng viên vào lúc 13 giờ đến 15 giờ ngày 18 âm lịch hàng tháng hướng về phía chính Tây để làm lễ giải sao.

Mọi thứ dùng để cúng giải hạn sao Kế Đô cần chuẩn bị nên có màu vàng.Trường hợp nếu những thứ khác có màu sắc khác thì dùng giấy màu vàng gói lại hay lót giấy màu vàng xuống phía dưới sau đó đặt lễ lên trên.

Sắm lễ cúng giải sao Kế Đô thì cần chuẩn bị:

Lễ vật cúng sao Kế Đô: là 21 ngọn nến hoặc đèn, Bài vị màu vàng của sao Kế Đô, Mũ vàng, Tiền vàng, Gạo, muối, Nước, Trầu cau, Hương hoa và Ngũ oản.

Bài vị để cúng sao Kế Đô giấy màu vàng viết dòng chữ: “Địa Cung Thần Vĩ Kế Đô Tinh Quân”

Sao Kế Đô chiếu mạng nam nữ tuổi nào?

Để biết được sao Kế Đô chiếu mạng đối với nam và nữ nào thì người ta xác định dựa vào tuổi âm lịch và giới tính. Nghĩa là tính theo tuổi bào thai hay trong dân gian vẫn gọi là “tuổi mụ”. Theo đó, sao Kế Đô sẽ chiếu mạng vào những năm tuổi sau:

Nam mạng sẽ gặp sao Kế Đô vào những năm: 7, 16, 25, 34, 43, 52, 61, 70, 79, 88, 97 tuổi.

Nữ mạng sẽ gặp sao Kế Đô vào những năm: 10, 19, 28, 37, 46, 55, 64, 73, 82, 91 tuổi.

Cũng tương tự như những vì sao khác trong hệ thống Cửu diệu, cứ sau 9 năm sao Kế Đô sẽ quay trở lại đối với một độ tuổi.

Bài cúng, văn khấn để cúng giải hạn sao Kế Đô

Tín chủ con là: ……………

Lễ xong chờ hết tuần hương thì hoá sớ, bài vị cùng tiền vàng rồi vẩy rượu lên. Sau đó lấy muối gạo rắc xung quanh bốn phương tám hướng.

Các Sao Khác:

Cụ thể từng sao có ngũ hành như sau: Sao La Hầu (hành Kim, xấu), Kế Đô (hành Thổ, xấu), Thái Dương (hành Hỏa, tốt), Thổ Tú (hành Thổ, trung tinh), Thái Bạch (hành Kim, xấu), Thủy Diệu (hành Thủy, trung tinh), Thái Âm (hành Thủy, tốt), Sao Mộc Đức (hành Mộc, tốt), Vân Hớn (hành Hỏa, trung tinh), .

1. Sao Thái Dương (Nhật diệu) – Cát tinh

Sao Thái Dương mang lại sự tốt lành, phát triển về công danh, an khang thịnh vượng, có nhiều tin vui, nếu đi làm ăn xa thì sẽ phát tài, và tài lộc lên cao, vạn sự hòa hợp, tài lộc cho nam. Còn nữ lại hay bị đau ốm, thường gặp phải tai ách nhất là tháng 6 và tháng 10 âm lịch.

2. Sao Thủy Đức (Thủy Diệu) – Trung tinh

Sao Thủy Diệu chủ về tài lộc hỉ, không nên đi sông biển, giữ gìn lời nói (nhất là đối với nữ giới) nếu không sẽ có tranh cãi, hay lời tiếng thị phi đàm tiếu.

Những người bị sao Thủy Diệu chiếu mệnh thì thường kỵ vào tháng 4 và tháng 8, khá giống với sao Thổ Tú, người xưa có câu “Thổ Tú, Thủy Diệu tứ bát ai”. Nhưng nếu xét kỹ thì người bị sao Thủy Diệu chiếu mệnh lại có kiết có cả hung đó. Đối với nam giới trong việc làm ăn sẽ được thuận lợi hơn là nữ giới.

3. Sao Thái Âm (Nguyệt diệu) – Cát tinh

Sao Thái Âm chủ về mọi chuyện được như ý. Cầu mong danh lợi đều được, nên đi xa, gặp người trên có lợi. Phụ nữ khi gặp sao này sẽ được vui vẻ, có tiền tài, hạnh phúc, và dễ đạt được các ước mơ nhưng về sinh nở thì bất lợi. Nam giới đi lại hanh thông, gặp sao này được bạn nữ giúp đỡ nhất là về tiền tài. Thái Âm là sao tốt cho nữ giới nhưng lại không tốt lắm đối với nam giới.

Sao Thái Âm tốt cho cả nam lẫn nữ vào tháng chín nhưng lại kỵ phải tháng mười. Nữ bị sao này chiếu mệnh sẽ phải mang nhiều bệnh tật, không nên sinh đẻ dễ xảy ra nguy hiểm.

4. Sao Thổ Tú (Thổ diệu) – Trung tinh

Sao Thổ Tú có ngũ hành thuộc Thổ, xét trên các phương diện đều xấu. Người bị sao Thổ Tú chiếu mạng cần phải đề phòng, kiêng kỵ vào tháng 4 và 8 âm lịch. Cả nam và nữ đều không thể tránh khỏi những ưu phiền, ngủ không ngon giấc, hoặc mơ thầy chuyện gở, kinh doanh buôn bán không phát triển. Ngoài ra cần hết sức đề phòng những kẻ tiểu nhân ám hại, hay gia đạo có nhiều điều buồn phiền, bất an.

5. Sao Kế Đô – Xấu (hung nhất đối với mạng nữ)

Sao Kế Đô là sao tam cửu khóc bi ai. Nên cả nam và nữ nếu bị sao này chiếu mệnh thì đều xem là xấu. Tuy nhiên nữ giới cần kiêng kỵ nhiều hơn là nam, đề phòng vào tháng 3 và tháng 9. Có câu “Nam La Hầu, Nữ Kế Đô”, là ý muốn nói đến sao khắc kỵ của nam và nữ. Nam giới nếu gặp phải sao này thì cứ sinh hoạt bình thường, nếu có điều bất trắc xảy ra thì cũng không phải lo lắng quá.

6. Sao Vân Hán (Vân Hớn) (Hỏa diệu) – Trung tinh

Sao Vân Hớn chiếu mạng, đàn ông hay đàn bà gặp phải sao này chiếu mạng, làm ăn mọi việc đều trung bình, khẩu thiệt, phòng thương tật, đau ốm, nóng nảy và mồm miệng. Nam gặp tai tinh, bị kiện, thưa bất lợi, nữ không tốt về thai sản nhất là xảy ra vào tháng 2, tháng 8 âm lịch. Do vậy người bị sao Vân Hớn chiếu mệnh cần phải cẩn thận trong lời nói nhằm tránh sự tranh chấp bất lợi dẫn đến những kiện tụng cò bót.

7. Sao Mộc Đức (Mộc diệu) – Cát tinh

Người có sao Mộc Đức được kết tinh như sao Thái Âm, việc làm ăn phát đạt và gặp thuận lợi. Do đó việc dựng vợ gả chồng cho các con sẽ rất tốt, mọi chuyện đều được hanh thông. Và đặc biệt vào tháng 12 thì sẽ rất tốt, bởi “Mộc Đức thập nhị trùng lai”. Tuy nhiên người nam giới lại hay bị đau mắt, còn nữ giới hay bị đau máu huyết.

8. Sao Thái Bạch (Kim diệu) – Hung tinh

Sao Thái Bạch chiếu mạng sẽ là hung tin, do Sao Thái Bạch là ngôi sao mang vận xấu nhất trong các sao. Thái Bạch là sao xấu cần phải giữ gìn trong công việc kinh doanh, có tiểu nhân quấy phá, hao tán tiền của, có thể phải trắng tay, đề phòng quan sự. Xấu nhất là tháng 2, 5, 8 âm lịch và kỵ màu trắng quanh năm.

9. Sao La Hầu – Xấu (hung nhất đối với mạng nam)

Tổng kết

Năm 2022 Là Năm Con Gì? Mệnh Gì? Tết 2022 Là Ngày Nào?

1. Năm 2021 là năm con gì?

Năm 2021 là năm Tân Sửu tức năm con trâu – con vật đứng thứ 2 trong 12 con giáp. Theo lịch vạn niên thì năm Âm lịch 2021 có mốc thời gian Dương lịch là từ ngày 12 tháng 02 năm 2021 đến ngày 31 tháng 01 năm 2022.

Từ xa xưa, trong dân gian đã quan niệm “con trâu là đầu cơ nghiệp” để thấy được rằng loài vật này rất gần gũi với con người. Nhờ sức mạnh cùng sự chăm chỉ của mình mà con trâu đã giúp con người cày bừa, sản xuất làm nên của cải vật chất.

Có lẽ cũng chính vì thế mà những người “cầm tinh con trâu” (người sinh năm trâu hay người tuổi Sửu) thường sẽ có tính chịu thương chịu khó, chăm chỉ và không quản ngại khó khăn, vất vả giống với những chú trâu chăm chỉ làm việc quanh năm.

2. Năm 2021 mệnh gì?

Theo bảng Can – Chi – Mệnh, những em bé sinh ra vào năm Tân Sửu 2021 sẽ có cùng bản mệnh với những em bé sinh năm Canh Tý 2020 là mệnh Thổ. Cụ thể là Bích Thượng Thổ – đất tò vò, đất trên vách. Loại đất này có ý nghĩa mang tới cuộc sống an toàn, bình yên cho con người.

Người mệnh Thổ sinh năm Tân Sửu 2021 rất hợp với màu nâu, nâu sậm, vàng. Đặc biệt, họ cũng cực kỳ hợp với các màu của mệnh Hỏa (mệnh Hỏa là mệnh tương sinh với mệnh Thổ) như hồng, tím, đỏ. Ngoài ra, những người mệnh Thổ sinh năm 2021 cần tránh sử dụng các màu tương khắc như xanh chuối, xanh lá cây…

Người sinh năm 2021 là năm con gì, bạn thuộc Tân Sửu và là người luôn có ý chí quyết tâm mãnh liệt. Bạn là người có đam mê, làm việc hết mình nên dễ dàng gặt hái nhiều thành công. Cuộc đời bạn tuy không giàu sang phú quý nhưng cuộc sống luôn đủ đầy và hạnh phúc. Phần nào giúp cuộc sống luôn ổn định thì bạn nên thiết kế nhà theo hướng Chính Nam với ngụ ý thu hút tài lộc và vận khí nở rộ.

3. Tết 2021 vào ngày nào?

Tết Dương lịch 2021 vào ngày nào?

Mặc dù chưa có thông tin chính thức từ Chính phủ nhưng theo quy định hiện hành tại Điều 115 Bộ luật Lao động thì người lao động sẽ được nghỉ làm việc và hưởng nguyên lương 1 ngày vào dịp tết Dương lịch 2021 (ngày 01/01 hàng năm).

Năm nay, tết Dương lịch 2021 là ngày 01/01/2021 rơi vào thứ sáu (tức ngày 19/11/2020 Âm lịch) nên các cán bộ, công chức, viên chức và người lao động có chế độ nghỉ 2 ngày/tuần (nghỉ thứ bảy và Chủ nhật hằng tuần) sẽ được nghỉ 3 ngày, từ 01/01/2021 đến hết ngày 03/01/2021 và thứ 2 (04/01/2021) đi làm lại.

Còn đối với các cơ quan, tổ chức thực hiện ngày nghỉ 1 ngày/tuần (nghỉ Chủ nhật) thì người lao động nghỉ 1 ngày thứ 6, thứ 7 đi làm lại bình thường hoặc đơn vị sẽ căn cứ vào tình hình cụ thể để điều chỉnh lịch nghỉ sao cho phù hợp.

Tết Nguyên Đán 2021 vào ngày nào?

Tết Nguyên Đán 2021 (hay còn gọi là tết Âm lịch, tết cổ truyền dân tộc, tết Tân Sửu 2021) diễn ra vào ngày 01/01/2021 đến ngày 03/01/2021 Âm lịch tức ngày 12/02/2021 đến ngày 14/02/2021 Dương lịch.

1/1 là Tết Nguyên Đán

15/1 là Tết Nguyên Tiêu (Lễ Thượng Nguyên)

3/3 là Tết Hàn Thực

10/3 là lễ Giỗ Tổ Hùng Vương

15/4 là Lễ Phật Đản

5/5 là Tết Đoan Ngọ

15/7 là ngày Lễ Vu Lan

15/8 là Tết Trung Thu

9/9 là Tết Trùng Cửu

10/10 là Tết Thường Tân

15/10 là Tết Hạ Nguyên

23/12 là ngày Tiễn Táo Quân về trời.

Từ tìm kiếm về năm 2021:

năm 2021 mệnh gì

năm 2021 là năm con gì

năm 2021 là năm con gì và mệnh gì

sinh con năm 2021 tháng nào đẹp

Cập nhật thông tin chi tiết về Văn Miếu Là Gì 62 trên website Xnko.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!