Sớ Cúng Sao / Top 12 # Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 3/2023 # Top View | Xnko.edu.vn

Dâng Sớ Cầu An &Amp; Cúng Sao Giải Hạn

Trong đời sống này, dù đông hay tây, Việt Tàu Phi Ấn, Anh Pháp Mỹ Nga, hễ là người ta, không hề phân biệt, dù nam hay nữ, biết chữ hoặc không, tông môn giáo phái, tín đồ tu sĩ, bác sĩ luật sư, xuất xứ ngành nghề, trẻ già bé lớn, thường dân quan chức, học thức ít nhiều, không điều riêng tư, da trắng da đen, da vàng da đỏ, không bỏ một ai, thảy đều thường gặp: những chuyện may rũi, chuyện được chuyện mất, chuyện hên chuyện xui, chuyện vui chuyện buồn, luôn luôn thay đổi, trong mỗi phút giây, lúc được tán thán, khi bị phỉ báng, nhiều khi chán ngán, cái cảnh tình đời, lúc được lên voi, khi bị xuống chó, không ai thèm ngó, vợ bỏ con chê, lúc được lên hương, khi bị lọt mương, hết đường chạy chọt, lúc được hiển vinh, khi bị tủi nhục, ở tù rục xương, lúc được sung sướng, khi bị khổ đau, không sao kể xiết.

Những lúc vui sướng, cuộc đời lên hương, chỉ biết thụ hưởng, phủ phê hỉ hả, không nhớ gì cả. Nhưng khi quá khổ, chịu đựng không thấu, tranh đấu đảo điên, khổ nạn liên miên, bấy giờ mới nhớ, đến chuyện cầu nguyện,khấn vái thần linh, van xin bồ tát, khẩn cầu thượng đế, ban cho phép lành, dành cho phép lạ, hy vọng cầu may, đổi thay vận mệnh.

Bởi vậy cho nên, mỗi dịp đầu năm, sau tết nguyên đán, mùng tám tháng giêng, người ta thường hay, chạy ngay vào chùa, nhân mùa thượng ngươn, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn,cầu cho nạn khỏi, cầu cho tai qua, cầu cho toàn gia, bình an vô sự, kể từ đầu năm, chí những cuối năm. Sẵn dịp trăng rằm, cầu luôn đủ thứ: nào được buôn may, gặp hên bán đắt, một vốn bốn lời, nhất bổn vạn lợi, không đợi kiếp sau, kiếp này trúng số, con cháu đỗ đạt, tiền bạc như nước, sắm xe tậu nhà, tha hồ sung sướng. Các chuyện cầu nguyện, van xin cầu khẩn, khấn vái như vậy, có thực hay không, có được gì không?

Người thì nói có, hễ cầu thì được, linh ứng vô cùng, nên tin là có, mất mát gì đâu. Kẻ lại nói không, trông chi chuyện đó, nằm mơ thì có, mở mắt tay không, không vẫn hoàn không, uổng công dâng sớ, mất tiền cúng sao, mau mau tỉnh thức! Tại sao như vậy? Bởi vì, thử hỏi: Sớ kia ai đọc? đọc cho ai nghe? chấp nhận hay không? thực không ai biết! Sao nọ ở đâu? ảnh hưởng thế nào? thực không ai biết! Hãy nhân dịp này, chúng ta cùng nhau, xét thử xem sao, cái chuyện đầu năm, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn,có đúng chánh pháp, có ích lợi gì, thực tế hay không?

Thực ra nếu như, người ta tu nhân, tích phước nhiều đời, từ trước đến nay, thì được gặp may, không cần cầu nguyện, chẳng cần van vái, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn. Những người đạo khác, đâu có bận tâm, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, nhưng họ có phước, họ vẫn gặp may, tiêu tai khỏi nạn, tam tai đại hạn, chẳng nghĩa lý gì, chẳng cần cúng sao, Hãy thử suy nghĩ: Tại sao như vậy?

Bởi theo thông lệ, từ xưa tới nay, nhiều người thường hay, vào chùa đầu năm, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn, nhưng mà tai nạn, vẫn tới ào ào, làm sao giải thích?Theo đúng chánh pháp, chúng ta phát tâm, giúp đời giúp người, gặp chuyện khó khăn, khốn khó khổ đau, cùng nhau tu tập, hạnh nguyện bố thí, tài thí pháp thí, cùng vô úy thí, cứu nhân độ thế, giúp đỡ tiền của, giúp công giúp sức, giúp lời chỉ dẫn, khuyên lơn an ủi, cho người bớt lo, cho đời bớt khổ, bớt cơn sợ hãi, thấy đâu là phải, việc đúng thì làm, đúng với chánh đạo. Làm được như vậy, chúng ta được phước, dù không mong cầu, chắc chắn không nghi. Khi tích được phước, dù ít hay nhiều, phước báo lai đáo, nghiệp báo tiêu trừ, chúng ta gặp may, tai qua nạn khỏi, gặp thầy gặp thuốc, tưởng như phép lạ.

Thử xét thí dụ:trên chuyến phi cơ, xe hơi xe lửa, xe đò tàu thủy, chỉ khi gặp nạn, mới biết người nào, có phước bao nhiêu. Người nào phước nhiều, thoát nạn hiểm nguy, đường tơ kẻ tóc, một cách lạ lùng, hoàn toàn an ổn, người đời cho là: phép lạ hiển linh, thần linh cứu độ, người đó số hên, cho nên mạng lớn. Người nào kém phước, cũng được người cứu, chậm hơn một chút, xây xát ít nhiều, người đời cho là: người đó cũng hên, nên còn cứu kịp. Người nào vô phước, rước họa vào thân, các kẻ ác nhân, làm việc thất đức, không chịu tích phước, chẳng chịu tu nhân, thân không giữ được, người đời cho là: tới số mạng vong, không ai cứu nổi!

Lúc gặp hiểm nguy, người cầu Đức Mẹ, kẻ khấn Quán Âm, lâm râm cầu nguyện. Nếu như cả hai, cùng được thoát hiểm, vị nào cứu họ? Còn nếu cả hai, đều bị thảm tai, chúng ta thử hỏi: Hai ngài ở đâu, chẳng nghe kêu cứu? Bác ái từ bi, sao nghe chẳng cứu? Thực ra đó là: chẳng có vị nào, cứu hay không cứu, các người gặp nạn. Chúng ta nên biết, sự thực chính là: chỉ có phước báu,do ở thiện tâm, cứu giúp con người, khi gặp tai biến, dù ở nơi đâu, trên đất trên không, trên sông trên biển. Còn phước thì sống, hết phước mạng vong, đừng mong cầu khẩn, hãy mau giác ngộ.

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy:Chỉ có phước báo, mới có thể làm, giảm thiểu nghiệp báo. Phước báo là do, việc làm phước thiện, chính mình tạo ra, chứ không phải do, thượng đế ban cho, hay do cầu nguyện. Nếu cầu nguyện được, tại sao nhiều người, cùng cầu cùng nguyện, kẻ chết người sống? kẻ qua người vướng?

Chúng ta nên biết, sự thực chính là: người nào tích phước, từ trước đến nay, không cần cầu nguyện, cuộc đời cũng an,ít gặp nguy nan, ít có sóng gió, ít có trắc trở, đở bớt phiền muộn, tai qua nạn khỏi, chuyện lớn hóa nhỏ, chuyện nhỏ hóa không, chuyện khó hoá dễ. Khi tích phước đức, dù ít hay nhiều, đều được hưởng phước, rước được điều may, không hay thất bại, tại thế an vui, tai qua nạn khỏi, gặp thầy gặp thuốc, không chuốc ưu phiền, người hiền thường gặp, bệnh tật tiêu trừ, tưởng như phép lạ. Còn như cầu nguyện, mà không tích phước, thì cũng như không, chẳng nên trông mong, phép lạ xảy đến! Nghiệp báo cũng do, chính mình tạo ra, chứ không phải do, thượng đế thần linh, hay bất cứ ai, xúi bảo mình làm.

Chính do tâm tham, xui khiến người ta, nổi lên tâm ma, cầu xin tiền tài, giàu sang sung sướng, một chút phẩm vật, nhỏ nhoi chút xíu, dâng cúng cho chùa, nhà thờ đền miếu, cầu xin bạc triệu, liệu còn chưa đủ, ngủ nghỉ ăn uống, muốn danh muốn lợi, tài sắc phù du, muốn tu nên bỏ. Chính do tâm sân, xui khiến người ta, nổi lên tâm ma, cầu xin thắng kiện, tàn hại kẻ thù, triệt hạ đối thủ, người họ không ưa, vui mừng khi thấy, kẻ thù thê thảm, sống trong khổ nhục, chết cũng không xong, họ mới hài lòng.Chính do tâm si, xui khiến người ta, nổi lên tâm ma, cầu nguyện vãng sanh, tây phương cực lạc, mà không cần tu, không gìn giữ giới, ngay trong hiện đời, đợi lúc hấp hối, nói với người nhà, rước nhiều ông bà, đến nhà hộ niệm, chỉ niệm mười tiếng, liền khiến được lên, cảnh giới Di Đà: thiệt là vô minh!

Trong Kinh A Hàm, Đức Phật có dạy,thí dụ như sau: Nếu một người nào, phải bị trừng phạt, nuốt một nắm muối, thì sẽ đau khổ, biết là dường nào. Nếu bỏ nắm muối, vào một tô nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, hơn một chút xíu. Nếu bỏ nắm muối, vào một lu nước, rồi mới phải uống, thì sẽ dễ chịu, nhiều hơn chút nữa. Nếu bỏ nắm muối, vào một hồ nước, rồi mới uống vào, thì dễ như không, không còn lớn chuyện.

Nắm muối tượng trưng, cho các nghiệp nhân, bất thiện chẳng lành, con người đã tạo, từ trước đến nay, bây giờ phải lãnh, nghiệp quả nghiệp báo, nói chung đó là: quả báo khổ đau, không sao tránh khỏi.

Chỉ có phước báo, ít hay là nhiều, tượng trưng tô nước, lu nước hồ nước, mới có thể giúp, con người vượt qua, sóng gió ba đào, nạn tai đau khổ, như vậy mà thôi. Đó mới thực là: chí công vô tư. Mình làm mình hưởng.Mình làm mình chịu.

Con người nên lo, dừng nghiệp chuyển nghiệp, tự mình suy xét, chính bản thân mình, đừng nhìn người khác, tu sửa ba nghiệp: thân khẩu và ý, đừng làm bậy bạ, đừng nói tốt xấu, đừng nghĩ vẫn vơ, ngay từ bây giờ, đừng đợi đến khi, nghiệp báo xảy ra, dù có rên la, không còn kịp nữa, nghiệp báo vay trả, chẳng ai thoát cả, van xin cầu khẩn, thì cũng muộn màng! Cầu nguyện van xin, dù tin hay không, thực sự chẳng giúp, chẳng ích gì đâu. Hãy thử suy nghĩ: Tại sao như vậy?

Bởi vì các vị, giáo chủ giáo phẩm, giáo quyền cao cấp, giáo hội trung ương, giáo sĩ địa phương, một khi tai ương, đến lúc xảy ra, là ai cũng vậy, cũng phải trả nghiệp, đã tạo trước kia, nhiều đời nhiều kiếp, hoặc trong kiếp này, cũng bị nguyền rủa, vu khống cáo gian, xử án khổ nạn, bắt bớ giam cầm, ám sát giết hại, dù là người thân, cũng không thay được.

Trong Kinh Pháp Cú, Đức Phật có dạy:Dù cho lên non, xuống biển vào hang, nghiệp báo đã mang, vẫn theo con người, như hình với bóng, không ai có thể, tránh được thoát được.

Tóm lạixưa nay, cuộc đời đổi thay, vui buồn sướng khổ, cũng tại con người, tạo phước cũng có, tạo nghiệp cũng có, tạo phước hưởng phước, hưởng phước báo lành, tạo nhân lãnh quả, nhân thiện quả hiền, nghiệp ác quả dữ. Đúng luật nhân quả, áp dụng ba đời: quá khứ hiện tại, và cả vị lai, chẳng hề sai chạy, chẳng vị nể ai, bất cứ người nào, dù tin hay không, nếu đã gieo nhân, cũng đều gặt quả. Trong sách có câu, cổ nhân thường dạy: Lưới trời tuy thưa, mà chưa ai thoát. Chữ “trời” có nghĩa: nghiệp báo đã mang, đến giờ phải trả, chưa ai thoát được.

Thượng đế thần linh, ơn trên thiêng liêng, chí công vô tư, không bao giờ làm, theo lời cầu nguyện, van xin khấn vái, của những con người, chẳng tích phước đức, lại gây ác nhân, thất đức vô cùng. Chẳng hạn như là: nay đâm bị thóc, mai thọc bị gạo, vu khống cáo gian, khai man lý lịch, lợi dụng pháp luật, xúi người kiện tụng, lợi dụng thần thánh, kiếm tiền bất chánh, giựt hụi quịt nợ, sang đoạt tài sản, chiếm hữu tác quyền, làm tiền trắng trợn, hung tợn hiếp người, bần cùng cô thế, bất kể khổ đau, của bao người khác.

Ngày xưa chư Tổ, có lòng dạy dỗ, con người phát tâm, làm lành lánh dữ, tạo nên phương tiện, dâng sớ cầu an, cúng sao giải hạn. Mục đích khuyến dụ, mọi người về chùa, cúng kiến lễ lạy, mong cầu an tâm, gia đạo hòa bình, tánh tình hướng thiện, rồi nhân dịp đó, truyền bá chánh pháp, thuyết giảng giáo lý, chỉ bát chánh đạo, đó là:chánh kiến, và chánh tư duy, chánh ngữ chánh nghiệp, cùng là chánh mạng, và chánh tinh tấn, chánh niệm chánh định, giảng luật nhân quả, giải lý vô thường, phước đức công đức, phước báo quả báo, đọc tụng kinh điển, chí tâm tu tập, dạy các pháp môn, niệm Phật ngồi thiền, hiền lành tạo phước, việc thiện làm trước, từ khước ác nhân, tu tâm dưỡng tánh, giúp đỡ con người, giác ngộ chân lý, thấy được sự thực, giải thoát khổ đau, xây dựng cuộc sống, an lạc hạnh phúc.

Ngày nay chúng ta, tâm Phật tâm ma, lẫn lộn khó phân, cho nên tạm dùng, phương tiện thiện xảo, cúng sao giải hạn, dâng sớ cầu an, khi còn hoang mang, tâm thường bất an, gian nan khốn khổ, không chỗ nương tựa, vì chưa hiểu đạo, chẳng biết làm sao, thực hành thế nào, cho đúng chánh pháp.

Giờ đây thấu hiểu, rõ ràng không nghi, đâu là chánh pháp, chúng ta phát nguyện: dừng nghiệp chuyển nghiệp, quày đầu hướng thiện, quyết tâm trì chí, ý hướng tu hành, tu tâm dưỡng tánh, tránh làm điều ác, chỉ làm điều thiện, giữ tâm thanh tịnh, tích cực chuyển hóa, cuộc sống tâm linh, của bản thân mình, ngày được tốt hơn, tâm được an hơn, cuộc sống tốt hơn, an lạc hạnh phúc. Như vậy thực tế, những người xung quanh, cùng chung phúc lạc, cho đến một ngày, ngộ được chánh đạo, đạt được đỉnh cao: niết bàn giải thoát.

Cách Xếp Đèn Cúng Sao

Sao La Hầu:

Ai chịu ảnh hưởng sao nầy nên biết là một năm hoang phí, khẩu thiệt, đa sầu đa khổ, phụ nữ cũng lắm sầu đau, tiền bạc hao tán.

Cúng ngày mùng 8 mỗi tháng, viết bài vị bằng giấy màu xanh để câu “Thiên Cung Thần Thủ La Hầu Tinh Quân”. Cúng với bông hoa trà, quả và 9 ngọn đèn theo hình vẽ kế bên. Cúng lạy về hướng Bắc.

( Kỵ tháng Giêng, tháng 7)

Sao Thái Âm:

Ai gập sao nầy thì trọn năm tài lợi, công danh toại ý vừa lòng. Nhưng về phần phụ nữ thì cò bệnh hoạn, nhớ là lúc sanh nên đề phòng.

Cúng ngày 26 âm lịch, bài vị bằng giấy màu vàng để câu “Nguyệt Cung Thái Âm Hoàng Hậu Tinh Quân”. Thắp 7 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, lạy về hướng Chánh Tây.

(hợp với người nữ, kỵ với nam giới tháng 9, 11) Sao Vân Hớn:

Ai gặp sao nầy là có nhiều việc cần tránh, phụ nữ nên đề phòng khẩu thiệt, có đau ốm.

Cúng ngày 29 âm lịch, vào buổi tối bài vị bằng giấy màu vàng để câu “Nam Phương Bính Đinh Hỏa Đức Tinh Quân”. Thắp 15 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về phía Chánh Nam.

Sao Thái Bạch:

Gặp sao nầy làm việc gì kết quả cũng không được vừa ý, cưới gã sanh bệnh, phòng kẻ tiểu nhơn dòm ngó.

Cúng ngày 15 âm lịch, bài vị bằng giấy màu trắng để câu ” Tây Phương Canh Tân Kim Đức Tinh Quân”. Cúng 8 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về hướng Chánh Tây.

Sao Thái Dương:

Đàn ông mà gặp sao Thái Dương, gặp nhiều may mắn, đi ca có tài lộc, mọi việc yên vui. Nhưng đàn bà mà gặp sao nầy thì không tốt.

Cúng ngày 27 âm lịch, vào buổi tối, bài vị bằng giấy màu đỏ để câu ” Nhật Cung Thái Dương Thiên Tử Tinh Quân” . Thắp 12 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về hướng Đông.

(tháng 6, 10 tài vô) Sao Kế Đô:

Gặp sao nầy là hung tinh lắm điều tai vạ bất thường, nhất là đàn bà phải phòng khẩu thiệt, nhưng đi xa có lợi.

Cúng ngày 18 âm lịch, viết bài vị bằng giấy màu trắng để câu “Thiên Cung Phân Vỹ Kế Đô Tinh Quân”. Thắp 21 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về hướng chánh Tây.

Sao Thổ Tú:

Gặp sao nầy là coi chừng có kẻ tiểu nhơn mưu hại, gia đạo bất hòa, tai tiếng, cửa nhà không yên, đêm nằm mộng mị, bất an.

Cúng ngày 19 âm lịch, vào buổi tối, bài vị bằng giấy màu vàng để câu “Trung Ương Mộ Hỷ Thổ Đức Tinh Quân”. Thắp 5 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về hướng Chánh Nam.

Sao Thủy Diệu:

Trai cũng như gái làm ăn một năm thạnh lợi, tình cảm thuận lợi, hưởng được phúc trời cho. Những phụ nữ cần nên dẻ dặt, kẻo bị mang tiếng thị phi, tránh đi sông, đi biển.

Cúng ngày 21 âm lịch, bài vị bằng giấy màu vàng đề câu “Bắc Phương Nhâm Quý Thủy Đức Tinh Quân”. Thắp 7 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về hướng Chánh Bắc.

(kỵ tháng 2,8 khẩu thiệt) Sao Mộc Đức:

Gặp sao nầy làm việc gì cũng kết quả, vừa ý, đàn ông thì hay bị bệnh. Đàn bà máu huyết không tốt.

Cúng ngày 25 âm lịch, bài vị bằng giấy màu vàng để câu “Đông Phương Giáp Ất Mộc Đức Tinh Quân”. Thắp 20 ngọn đèn sắp theo hình vẽ kế bên, cúng lạy về hướng Chánh Đông.

Cúng Sao Hội Mùng 8 Bao Nhiêu Đèn Cầy? Ý Nghĩa Của Cúng Sao?

Cúng sao hội mùng 8 bao nhiêu đèn cầy?

Để quá trình cúng sao hội diễn ra thuận lợi, người ta thường chuẩn bị đầy đủ các vật phẩm gồm bài vị cúng sao tương ứng với sao chiếu mệnh, văn khấn, hoa quả, trầu, rượu, tiền vàng, gạo, muối, đèn và nến. Đối với nến bạn cần biết rõ sao chiếu mệnh của mình là sao nào để từ đó biết được số lượng nến cần thiết cho mỗi lần cúng.

Đối với cúng sao hội mùng 8, sao chiếu mệnh sẽ là sao La Hầu. Người thuộc sao chiếu mệnh này sẽ có cuộc đời như sau: nam giới thường bị ảnh hưởng nặng về tai tiếng, thị phi, hoặc bệnh tật, tai nạn. Còn nữ giới có thể ổn định và cân bằng hơn nam giới. Tháng kỵ của sao La Hầu là tháng 1 và tháng 7 âm lịch.

Theo các chuyên gia phong thủy, bạn nên cúng giải hạn vào ngày mùng 8 âm lịch hằng tháng, vì đây là thời điểm sao La Hầu giáng trần. Khi cúng hãy thắp 9 ngọn đèn theo sơ đồ bên dưới và lạy 9 lạy về hướng Chánh Bắc. Thời điểm làm lễ cúng nên dao động trong khoảng 21 – 23 giờ.

Theo quan niệm của người xưa cho rằng mỗi người sẽ có một ngôi sao chiếu mệnh tương ứng. Hiển nhiên sẽ có sao chiếu mệnh tốt và cũng có chiếu mệnh không tốt. Chính vì thế để giải hạn xui cho sao chiếu mệnh xấu, người ta thường phải cúng sao giải hạn hằng tháng hoặc hằng năm.

Tổng cộng có 9 ngôi sao chiếu mệnh xuất hiện vào từng thời điểm khác nhau trong năm. Nếu gặp năm trúng sao chiếu mệnh xấu, người ta buộc phải cúng sao để giải hạn, giảm đi những chuyện không may, ốm đau, bệnh tật…. Thông thường bạn có thể lựa chọn thời gian cúng sao vào đầu năm mới hoặc mỗi tháng ở các ngôi chùa, thậm chí cúng tại nhà ở đều được, miễn sao chuẩn bị bàn cúng tinh tươm và đầy đủ nhất.

Ngoài mục đích giải hạn, việc cúng sao còn nhằm cầu xin Thần Sao ban cho phước lành, may mắn, sức khỏe, bình an, và thịnh vượng cho cả gia đình.

Sao Thái Dương:

Sao Thái Dương được xem là ngôi sao chiếu mệnh tốt nhất trong các sao hạn, nếu được phù hộ có thể đem lại nhiều tài lộc, công danh thăng tiến, tuy nhiên nếu chịu ảnh hưởng từ sao này bạn có thể gặp phải các tình huống thiếu may mắn khi làm ăn, tiền tài… Khi cúng sao Thái Dương nên chuẩn bị 12 cây nến, lạy 12 cái về phía Đông. Thời gian làm lễ tốt nhất là 27 âm lịch hằng tháng, lúc 21 – 23 giờ.

Sao Thái Âm:

Thời gian cúng sao hội là ngày 26 âm lịch hàng tháng từ 19 – 21 giờ, sử dụng 7 chiếc nến vái 7 lạy về hướng Tây.

Sao Mộc Đức:

Đối với sao Mộc Đức, thời điểm cúng sao giải hạn nên là 19 – 21 giờ ngày 25 mỗi tháng – đây là thời gian sao Mộc Đức giáng trần. Trước khi cúng cần chuẩn bị 20 ngọn đèn thắp theo đúng sơ đồ tương ứng của sao Mộc Đức, lạy 20 cái quay mặt về hướng Đông.

Sao Vân Hán:

Thời gian cúng sao Vân Hán nên là ngày 29 âm lịch hằng tháng hoặc đúng vào tháng 4 và 5 để đạt sự linh nghiệm cao. Chuẩn bị đủ 15 chiếc nến để cúng lạy và thắp quay về phía chính Đông

Sao Thổ Tú:

Khi cúng sao giải hạn cho sao Thổ Tú, bạn hãy chuẩn bị 5 ngọn nến cùng các lễ vật khác trên bàn cúng, sau đó vái 5 lạy về hướng Tây. Thời gian cúng tốt nhất là 21 giờ ngày 19 hàng tháng.

Đối với sao Thái Bạch thời điểm cúng giải hạn phù hợp là ngày 15 hàng tháng lúc 19 – 21 giờ. Nên thắp 8 chiếc nến đồng thời lạy 8 cái về hướng chính Tây.

Sao Thuỷ Diệu:

Thời gian kỵ của người thuộc sao Thủy Diệu là tháng 4 và tháng 8 âm lịch. Do đó ở thời gian này bạn nên cúng giải hạn vào ngày 21 âm lịch từ 21 đến 23 giờ. Khi cúng cần chuẩn bị bài vị có giấy màu đỏ, lễ vật và 7 ngọn nến. Thắp nến sáng rồi lạy 7 lạy về hướng Bắc.

Sao Kế Đô:

Đối với sao Kế Đô bạn nên cúng sao vào ngày 18 âm lịch hàng tháng. Cần chuẩn bị bài vị dùng giấy màu vàng, 20 ngọn nến. Khi cúng lạy 20 lạy về hướng Tây.

Vì Sao Lại Cúng Sao Giải Hạn?

Câu chuyện cúng sao giải hạn

Hồi chiều, vào FB thấy ở phần tin nhắn có “số đỏ”, bấm xem thấy một “bạn” nhắn: Chúc thầy năm mới mạnh khỏe, mọi việc như ý. Nhân tiện cho MH hỏi là việc cúng sao giải hạn có thật là hiệu quả không?. Lúc sáng, nhỏ bạn rũ con đến chùa… Lúc đầu con chỉ lạy Phật cầu nguyện cho gia đình bình an thôi, nhưng nó kéo con đến thầy…coi sao, Thầy ấy nói là năm nay con sao Kế Đô, hạn xấu, phải cúng giải hạn mới được yên. Con ra về mà lo lắng quá, thầy có cúng sao giúp con hết hạn được không thầy?.

Lễ vật cúng sao giải hạn của Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ.

– Câu hỏi lần này chẳng lẽ tôi lại trả lời (huề vốn) là …bạn nên hỏi ông Google xem cho chắc (như mấy câu hỏi lần trước thì..kỳ quá), mà trả lời thì e rằng sẽ có “động chạm” không ít …. Vì mùa này là mùa …cúng sao mà.

– Tôi hồi âm liều là… bạn muốn cúng sao hay không cúng sao thì cũng…chẳng sao đâu, quan trọng ở chỗ là mỗi ngày bạn sống có chúng tôi sao hay không thôi. (Hì hì).

Cúng sao giải hạn là của Bà-la-môn giáo

– Tập tục cúng sao vốn có từ rất xưa trong Bà-la-môn giáo ở Ấn Độ, sau đó ảnh hưởng đến Trung Hoa, rồi mới qua nước Việt Nam.

– Các nhà Chiêm tinh xưa cho rằng mỗi năm mỗi người đều có 1 trong 9 sao chiếu. Chín vị sao này, Phạn ngữ gọi là Navagraha, Trung Hoa dịch là Cửu diệu, trong đó có: 3 sao tốt: Thái dương, Thái Âm, Mộc đức. 3 sao xấu: La hầu, Kế đô, Thái bạch. và 3 sao trung: Vân hớn, Thổ tú, Thủy diệu. Và họ cho rằng ai trúng vào sao xấu chiếu mạng thì phải cúng giải hạn mới …hết hạn. – Tôi nghĩ, nếu 9 vị thần sao đó có khả năng “điều khiển”, làm chủ vận mạng của ta, hay “xí xóa” khỏa lấp được những việc làm xấu ác của con người, thì luật công bằng, nhân quả ở đâu?. Chúng ta đã hiểu rõ chưa về giáo lý Nhân quả mà Đức Phật truyền đạt?. (Hay là: “hiểu rồi, nhưng mà…phương tiện trong phương tiện”,…hay lo sợ “nếu mình không tổ chức cúng sao thì sẽ không có tín đồ đến chùa…”?). – Kinh Phật có câu: “Muốn biết quá khứ chúng ta đã gieo nhân gì (làm tốt hay xấu) thì cứ nhìn cái quả (vui hay khổ) mà chúng ta đang có hôm nay. Muốn biết tương lai chúng ta thế nào thì cứ nhìn cái nhân chúng ta đang gieo trồng trong hiện tại”.

Đức Phật cũng đã khuyên các thầy Tỳ Kheo, không nên làm những việc xa rời chánh pháp như: “chiêm tinh, chiêm tướng, đoán số mạng, xem mặt trăng, mặt trời, các sao mọc lặn, sáng mờ, …, dùng bùa chú để giúp người được may mắn, dùng bùa chú để khiến người bị rủi ro, …” (Trong Kinh Trường Bộ – Kinh số 2, Sa Môn Quả).

Những vị thầy xuất gia có bao giờ họ làm lễ dương sao, cúng sao, giải hạn cho mình đâu! những bậc thầy luôn chuyên tâm tu hành thiện pháp, làm phước là chuyển nghiệp thì đó là cúng sao giải hạn rồi.

” Chờ đợi các vì sao, Kẻ ngu hỏng điều lành, Điều lành chiếu điều lành, Sao trời làm gì được?”

Hạo Nhiên / Phật học đời sống

Viết theo quan điểm của tác giả