Bạn đang xem bài viết Sen Ở Làng Sen Quê Bác, Tháng Năm… được cập nhật mới nhất trên website Xnko.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.
Ở làng Sen, từ xa xưa sen đã ở với người. Sen trong ao nhà, sen ở ngõ làng, sen giữa những cánh đồng bát ngát… Sen làm nên tên làng. Sen làm nên hồn người. Và làng Sen đã nở ra một đóa sen thơm, đã hun đúc nên một con người Việt Nam đẹp nhất: Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng!
Từ Vinh, con đường về làng Sen quê Bác là con đường với bao cảnh sắc thân thuộc. Con đường ấy chỉ dài 15 cây số mà miên man trong tôi hàng ngàn ký ức từ vọng về lịch sử và những kỷ niệm tuổi thơ… Đây cửa hàng giải khát Trà Bồng, hiệu kem Cửa Nam của thời Miền Bắc XHCN. Cốc xi-rô, miếng kẹo lạc thật thà ngày ấy còn thơm ngon đến tận bây giờ!
Đây Cửa Tiền, con sông thuyền bè tấp nập, con sông xưa trong xanh từng tắm mát bao tuổi thơ Vinh. Cửa Tiền nối sông Lam với kênh Nhà Lê – con đường thủy được Lê Hoàn xây dựng, chảy qua thời Nguyễn Huệ dùng để vận chuyển quân lương từ Miền Trung ra Miền Bắc và ngược lại, đồng thời là một công trình thủy lợi độc đáo tưới mát cho những cánh đồng khô hạn của vùng Hoan Diễn trong suốt chiều dài lịch sử.
Đây Chùa Sư Nữ, ngôi chùa có từ năm 886. Nó nổi tiếng vì không chỉ là một ngôi chùa cổ, còn giữ được bộ kinh quý từ thời nhà Đường, nhiều tượng Phật và đồ thờ quý giá mà còn vì trụ trì chùa từ xưa đến nay đều là sư nữ, trong đó có nhiều trang giai nhân tuyệt sắc, có cả quận chúa thời nhà Nguyễn.
Hồi nhỏ, vào những năm 60, tôi theo một ông chú đến chùa, được gặp Ni trưởng Thích Diệu Niệm và ấn tượng đó không bao giờ phai nhạt. Bà sinh năm 1925, mất năm 1998. Sắc đẹp và lòng nhân ái của bà nổi tiếng khắp vùng. Năm 1945 và qua hai cuộc kháng chiến, bà thường mở rộng cửa chùa cứu đói, chữa bệnh cho dân nghèo hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh. Không chỉ kinh kệ mà bà còn giỏi thơ văn, tinh thông nhiều lĩnh vực và tích cực tham gia hoạt động xã hội.
Hai lần về thăm quê, Bác Hồ đều đến Chùa Sư Nữ, Ni trưởng Thích Diệu Niệm được hai lần đón Bác. Ở chùa này, gần đây có một ao sen trắng, chỉ sen trắng mà thôi, mỗi năm nở hai lần, ai cũng cho là đẹp, hiếm và lạ!
Qua Chùa Sư Nữ một đỗi ngắn là đến Hưng Nguyên, gặp Đài liệt sĩ Thái Lão. Nơi đây, ngày 12/9/1930, máy bay thực dân Pháp đã ném bom và xả súng vào 8.000 nông dân các huyện Hưng Nguyên, Nam Đàn biểu tình trong Phong trào Xô-viết Nghệ Tĩnh, làm 217 người chết và 125 người bị thương. Năm 1961, Bác Hồ đã đến đây đặt vòng hoa và đứng lặng hồi lâu. Tháng 2, Bác mới chủ trì Hội nghị thành lập Đảng, mà tháng 9, lòng dân theo Đảng đã ngùn ngụt cháy, sự hy sinh vì Đảng, vì Nước đã to lớn khôn cùng… Có ai có thể quên dân, quên những trang sử hào hùng khi có lòng dân theo Đảng?
Con đường lên quê Bác ngày xưa theo lối người đi bộ và đi xe đạp thật dài. Dài và đẹp. Cái dài làm cho bước hành hương thêm ý nghĩa. Cái đẹp của thiên nhiên làng quê nước Việt thật gần gũi mà lung linh, huyền diệu. Trên con đường về quê Bác năm nay bằng ô tô lướt qua những xóm làng dọc QL 46 như phố thị, tai tôi lại văng vẳng đoạn văn của Hoài Thanh và Thanh Tịnh mà chúng tôi thuộc lòng trong tiết giảng văn “Phong cảnh quê Bác” ở cấp hai:
“Trước mắt chúng tôi, giữa hai dãy núi là nhà Bác với cánh đồng quê Bác. Nhìn xuống cánh đồng có đủ các màu xanh, xanh pha vàng của ruộng mía, xanh rất mượt mà của lúa đương thì con gái, xanh đậm của những rặng tre; đây đó một vài cây phi lao xanh biếc và nhiều màu xanh khác nữa…”. Ôi làng quê Việt Nam! Nhớ “Hoa mướp cuối mùa vàng rực như sao” trong thơ Huy Cận. Nhớ sao “Thôn trước thôn sau tựa khói lồng/ Bóng chiều bên có lại bên không/ Mục đồng thổi sáo trâu về hết/ Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng” (Trần Nhân Tông).
Và Hoài Thanh năm 1961 (chắc cũng lần về quê Bác) viết về làng Nghi Trung quê ông sau 30 năm xa: “Xa xa đã trông thấy những ngọn tre lơ thơ đàng sau khoảnh vườn cũ. Những ngọn tre ấy thân yêu biết mấy đối với tôi. Ngày xưa, những lần đầu tôi phải xa nhà lên tỉnh học, khi ngoảnh lại nhìn mấy ngọn tre đu đưa, nước mắt tôi cứ trào ra, không sao cầm lại được. Trong đầu óc non trẻ của tôi hồi bấy giờ, giữa cuộc sống tràn đầy lạnh nhạt, gian dối và ác độc, chỉ nơi đây là có tình thương. Giờ đây, cuộc sống đã thay đổi và cách tôi nhìn cuộc sống cũng đã thay đổi, nhưng mấy ngọn tre kia trong lòng tôi vẫn có một vị trí riêng”.
Lại nhớ tre!. “Nước Việt Nam xanh muôn vàn cây lá khác nhau. Cây nào cũng đẹp, cây nào cũng quý, nhưng thân thuộc nhất vẫn là tre nứa…Bóng tre trùm lên âu yếm làng, bản, xóm, thôn. Dưới bóng tre của ngàn xưa, thấp thoáng mái chùa cổ kính. Dưới bóng tre xanh, ta gìn giữ một nền văn hóa lâu đời”. Ấy vậy mà cây tre ngàn đời ấy bây giờ đã hiếm. Tre bị chặt phá trong phong trào cải tạo vườn tạp. Tre và làng khuất hẳn trong cơn lốc đô thị hóa, trong những cơn sốt bần bật của thị trường bất động sản…
Chả lẽ một ngày nào đó, con cháu ta khi đọc về tre lại tra trong từ điển như một từ Việt cổ? Khi ai đó ruồng rẫy tre, vẫn còn nhiều người yêu tre lắm. Tre đã làm nên kiến trúc Võ Trọng Nghĩa lừng danh ở Nhật Bản. Tháng 5/2018, cô gái Hà Nội Trần Thạch Thảo sinh năm 1995 đã đoạt giải tài năng cuộc thi thiết kế nội thất Mỹ với cảm hứng từ cây tre và sự cần nối tiếp của các thế hệ. Không có gì bỏ đi, nhất là những điều không thể làm lại!
Về quê Bác là về làng Sen. Mắt nhìn đầu tiên là sen. Cảm xúc đầu tiên là sen.
Tên “Cồn Sen”, “Làng Sen”, “Kim Liên” có từ lâu đời cùng với hoa sen. Dường như hoa sen nở trước hàng trăm năm ấy là để ướp hương cho trời đất một vùng, để chuẩn bị cho việc sinh ra một con người đẹp nhất vào ngày 19/5/1890; con người sẽ giải phóng dân tộc, sẽ “vạch đường đi cho dân tộc theo đi” vào thế giới văn minh, hiện đại, sánh vai cùng cường quốc năm châu.
Hoa sen có nhiều nơi trên thế giới, mang giá trị “cái đẹp phổ quát”. Theo kinh Lalitavistara, phần tâm linh của con người thì vô nhiễm, giống như hoa sen mọc trong bùn mà không bị hôi tanh mùi bùn. Trước Công nguyên, các tín đồ của đạo Phật đã gắn hoa sen với Đức Phật với một nhận thức, một hàm ý: sen chứa đựng những gì trong sạch, cao quý, kết tinh nhất của tâm hồn và trí tuệ con người.
Ở Việt Nam, đâu cũng có sen. Sen mênh mông Đồng Tháp Mười, sen quấn quýt với bờ tre, ruộng lúa trên đồng bằng Bắc Bộ. Sen nở dọc miền Trung làm dịu đi cả một miền cát cháy. Sen trên bàn thờ mỗi nhà. Sen trong văn chương, nghệ thuật. Sen trong lời nói thường ngày. Sen cùng người đi qua năm tháng: Sen tàn, cúc lại nở hoa; Thu ăn măng trúc, đông ăn giá/ Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao. Sen là tình nghĩa thủy chung: Dẫu lìa ngó ý còn vương tơ lòng. Sen là đạo đức, phẩm hạnh: Nhụy vàng bông trắng lá xanh/ Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Không chỉ hoa, mà lá sen không thấm nước, cũng là biểu tượng của sự sạch sẽ, sự tự làm sạch mình, không “tự diễn biến”.
Sen là kỷ niệm thơm mát tuổi học trò: Học trò trường huyện ngày năm ấy/ Anh tuổi bằng em lớp tuổi thơ/ Những buổi học về không có nón/ Đội đầu chung một lá sen tơ. Sen là vị thuốc quý có thể chữa được nhiều thứ bệnh, nhất là làm cho con người dễ ăn, dễ ngủ, xua tan được sự ưu phiền trong cõi thế nhọc nhằn, làm cho tâm hồn thanh thái…
Năm 1822, vua Minh Mạng đã cải tạo một khúc sông cũ thành hồ sen gọi là Hồ Tịnh Tâm, có điện, các và ông thường ra đấy để tu tâm, dưỡng tính, tránh căng thẳng, mệt mỏi vì triều chính…
Sen ở làng Sen lại càng đặc biệt. Ở đây, từ xa xưa sen đã ở với người. Sen trong ao nhà, sen ở ngõ làng, sen giữa những cánh đồng bát ngát… Sen làm nên tên làng. Sen làm nên hồn người. Và làng Sen đã nở ra một đóa sen vàng, đã hun đúc nên một con người Việt Nam đẹp nhất.
Sen làng Sen ngày xưa mọc nhiều và lan theo mặt nước một cách tự nhiên. Nhưng cũng nhiều thời kỳ do khai thác hết mọi diện tích để trồng lúa và cây lương thực, bóng sen có lúc tưởng đã lụi tàn. Những năm gần đây, sen đã được gầy dựng lại, không chỉ ở làng Sen mà còn các xã khác của Nam Đàn. Ao nối ao, sen thơm suốt dọc đường của bước chân du khách. Hoa sen ở đây không bán, mà chỉ để làm đẹp cảnh làng, để dâng lên bàn thờ của Bác trong suốt cả mùa hoa. Bàn thờ Bác không chỉ ở Nhà Tưởng niệm của Khu Di tích mà có trong nhà mỗi người dân Kim Liên cùng với bàn thờ gia tiên.
Gặp ông T., chủ ao sen cạnh đình Kim Liên, tôi được biết, chính quyền địa phương và một doanh nghiệp đã đầu tư hoàn toàn cho việc trồng sen, người dân chỉ việc chăm sen và hưởng lợi từ hạt sen, tâm sen, lá sen. Bởi thế, sen làng Sen nói riêng, ở Nam Đàn nói chung, ngày càng nhiều, càng đẹp…
Học giả Bùi Dương Lịch thế kỷ 18 cho rằng, người Xứ Nghệ có tính chất phác, hồn hậu. Người lính Xứ Nghệ trung thành, quả cảm, nếu khéo dùng sẽ trở nên vô địch. Đậm đà tính cách hiền hậu, giỏi giang Xứ Nghệ là người Kim Liên, Nam Đàn. Anh bạn Nguyễn Bá Tân của tôi, trước làm báo Nghệ An, sau ra Đại đoàn kết, khi ai hỏi về quê, anh trả lời: “Thường thôi, quê Bác”. Câu này dân gian vẫn nói. Sau niềm tự hào là một nhắc nhở: Làm người dân quê Bác phải tốt hơn, phải cách mạng hơn, phải không được làm ảnh hưởng danh dự quê hương.
Đến Kim Liên, ngoài việc viếng thăm nhà Bác, vào sâu hơn sẽ thấy hình ảnh một xã hội Nghiêu Thuấn với những quan hệ con người vô cùng thân thiết. Ngày xưa cũng đã vậy, tối lửa tắt đèn, sướng khổ có nhau. Năm 1901, thân phụ Bác Hồ là Nguyễn Sinh Sắc đỗ Phó bảng, dân làng Sen đã góp nhau một ngôi nhà gỗ mái mía để đón để làm nơi ở và đón cụ vinh quy. Chao ôi, cái nghèo! Nhìn cái bếp đơn sơ, nhìn tấm phản Bác và anh Khiêm của Bác nằm ngày nhỏ, không ai là không bồi hồi nhỏ lệ…
Tháng 5 này, tôi đã có dịp trò chuyện lâu hơn với chị Bùi Thị Đảm và các chị em trong Phòng Tuyên truyền – giáo dục của Khu Di tích. Họ chủ yếu làm công việc thuyết minh, và sự xúc động từ sâu thẳm trái tim của họ đã làm xúc động mọi đoàn khách.
Chị Đảm quê Nam Giang và đã có hàng chục năm công tác ở đây. Làm thuyết minh, lương không cao, ít có điều kiện để “thăng tiến” theo kiểu nhiều người vẫn nghĩ. Vậy mà bao thế hệ đã gắn bó không rời. Cùng với niềm tự hào được giới thiệu về cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng, đạo đức của Bác thì còn có nhiều điều khác nữa, không thể nói thành lời. Không phải khi thuyết minh, mà khi nói chuyện bình thường, họ cũng không cầm được nước mắt: càng hiểu, càng thương Bác, mồ côi mẹ từ sớm và suốt đời không được có người thân ở bên cạnh. Điều ấy người thường ai cũng có, riêng Bác thì không. Bác đã hy sinh tất cả cho dân cho nước.
Càng hiểu, càng thấy Bác vô cùng vĩ đại ở những điều nho nhỏ, bình thường nhất, ở sự gần gũi không hề có khoảng cách với tất cả chúng ta. Mỗi ngày hiện nay, có khoảng 50-70 đoàn khách đến thăm quê Bác, không kể những người dân tự đến.
Một cựu chiến binh Mỹ bày tỏ: “Tôi đến thăm quê hương Chủ tịch Hồ Chí Minh để tìm hiểu về con người, văn hóa Việt Nam; hiểu vì sao chúng tôi thua trận và ra về tôi bỗng thấy như mình đang mang trái tim Việt Nam”. Một nhà sư Bhutan thổ lộ: “Đến đây, tôi càng hiểu hơn và vô cùng cảm phục Hồ Chí Minh. Tôi đã hiểu vì sao người Việt Nam yêu Bác Hồ của họ đến thế. Bây giờ tôi cũng yêu Bác Hồ như người Việt Nam”… Có lẽ, những điều ấy, càng làm cho Đảm, cho Oanh, cho Huyền, cho Hà, cho Hải… càng tự hào, càng hạnh phúc với công việc của mình. Và tôi thấy họ thật sự là những bông sen đẹp của làng Sen!
Cách đây 20 năm, nét nghèo khổ, ưu tư của người dân quê Bác còn hiện rõ trên nếp nhăn ưu tư của người mẹ nghèo ngồi chờ bán cho du khách từng quả cam, quả đu đủ vọm vẹo vườn nhà. Bây giờ không còn cảnh ấy. Kim Liên đã thay đổi nhiều, đã giàu có hơn. Khu Di tích đã được mở rộng với nhiều hạng mục công trình hiện đại. Rất nhiều ki-ốt bán quần áo, tranh ảnh, đồ ăn được bày bán. Và chật chội những cây trồng lưu niệm. Tôi bỗng nhớ, bỗng thèm cái nguyên sơ vốn có.
Tôi đã được đến thăm mộ Nguyễn Du khi còn là “sè sè nấm đất bên đàng”. Ấy vậy mà ấn tượng, mà xúc động hơn mọi thứ tượng đài. Tôi muốn ở quê Bác, có bán cái gì cũng không bán sản phẩm chất lượng thấp, xập xí xập ngầu…; muốn những công trình khác không che lấp ngôi nhà, ngôi vườn đơn sơ mộc mạc của Bác. Như thể hoa sen cứ lặng nở, cứ thơm ngát trong đầm…/.
Đầm Sen Ở Đường Nào Mấy Giờ Mở Cửa Và Đóng Cửa
Nhiều người thắc mắc Đầm sen ở đường nào? mấy giờ mở cửa và đóng cửa? bài viết hôm nay chúng tôi sẽ giải đáp điều này.
Đầm sen ở đường nào? mấy giờ mở cửa và đóng cửa?
Đôi nét về khu du lịch đầm sen:
Lịch sử:
– Trước năm 1975, mảnh đất thuộc Công viên Văn hoá Đầm Sen hiện nay là một khu đầm lầy hoang hoá. – Trong các năm 1976-1978, theo lời kêu gọi của Thành ủy – UBND TP Hồ Chí Minh, hàng chục ngàn lao động từ khắp các quận, huyện trong thành phố được huy động đến để nạo vét, trồng cây ở khu vực này. – Năm 1983, công trình bước đầu đưa vào sử dụng khoản 30 ha vừa mặt nước, vừa thảm xanh. Thành phố giao cho Quận 11 quản lý. UBND Quận 11 giao cho 3 đơn vị: Công ty Ăn uống Q.11, Công ty Văn hóa tổng hợp và Xí nghiệp nuôi trồng thủy sản khai thác. – Năm 1989, công trình được giao cho Công ty Dịch vụ Du lịch Phú Thọ – đơn vị vừa mới tách ra từ Công ty Ăn uống Q.11 – quản lý và đầu tư cho đến nay.
Đầm Sen là một trong những khu du lịch lớn đặc sắc nhất nước Việt Nam. Kiến trúc được kết hợp một cách hoàn mĩ nền văn hóa Đông-Tây và một chút vẻ đẹp thời La Mã. Ngoài những khu vui chơi, Đầm Sen còn có những nhà hàng, khách sạn và hàng chục các loại hình khác để phục vụ khách du lịch. Đầm Sen là nơi vui chơi giải trí rất hấp dẫn cho người trong và ngoại nước.
Toàn công viên trải dài trên một diện tích rộng gồm 30 khu vực: Khu trò chơi điện tử, Sân khấu cổ tích, Lâu đài cổ tích, Sân khấu quảng trường, Hồ Tây thu nhỏ, Nam tú thượng uyển, Non bộ – thủy cung, Ðảo khiêu vũ, Nhà sinh vật biển, Rối nước, Vườn chim thiên nhiên, Chùa cổ Giác Viên, Vườn bướm thiên nhiên(đã đóng cửa), Khu câu cá, Khu trưng bày kỳ long, Quán trà đạo, Khu trò chơi mạo hiểm, Hồ thiên nga, Hồ ngựa phi, Vườn hoa châu Âu, Quảng trường La Mã, Quảng trường văn hoá, Sân khấu nhạc nước, Khu bowling, Khu dịch vụ thể thao, Hồ câu tôm, Nhà hàng thủy tạ, Khu trò chơi thiếu nhi, Ðèn tạo hình, Cầu cửu khúc, Nhà ga Monorail, đường ray Monorail, câu cá sấu, băng đăng…
Đặc biệt “Thuỷ cung Đầm Sen” là một công trình phục vụ tham quan giải trí mới của Công viên văn hoá Đầm Sen do Tổng công ty Dịch vụ Du lịch Phú Thọ và Công ty TNHH TM & DV Hải Thanh làm chủ đầu tư. Thuỷ cung toạ lạc tại vườn Nam Tú Thượng Uyển – khu A Công viên văn hoá Đầm Sen. Công trình mới khai trương giai đoạn 1 vào ngày 04/08/2013 và hiện tại đang tiếp tục xây dựng giai đoạn 2 với những công trình phụ mới lạ và đặc sắc nhằm phục vụ du khách.
Thủy cung Đầm Sen có diện tích trên 3000m2 với tổng thể tích nước trên 2500m3, là nơi sinh sống của hơn 6000 cá thể sinh vật thuộc hàng trăm loài sinh vật đa dạng dưới nước.
Giờ mở cửa/ đóng cửa Đầm sen khô:
– Thứ 2 đến thứ 6: 7:30 – 18:00 – Thứ 7, chủ nhật: 7:30 – 21:00 – Ngày lễ và sự kiện: 7:30 – 22:00
Lưu ý: Những trò chơi trong khu vực đầm sen khô sẽ đóng của lúc 17h30. Do đó nếu chưa biết các bạn nên tận dụng thời gian.
Giờ mở/đóng cửa cửa Đầm Sen nước:
– Thứ 2 đến thứ 7: Từ 8:30 – 18:00 – Chủ nhật: Từ 8:00 đến 18:00
Qua bài viết Đầm sen ở đường nào mấy giờ mở cửa và đóng cửa? của chúng tôi có giúp ích được gì cho các bạn không, cảm ơn đã theo dõi bài viết.
50 Năm Bác Hồ Phát Động Tết Trồng Cây
(1959-2009)
Ngày 28-11-1959, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động ngày “Tết trồng cây” với mong muốn: Trong mười năm, đất nước ta phong cảnh sẽ ngày càng tươi đẹp hơn, khí hậu điều hòa hơn, cây gỗ đầy đủ hơn. Điều đó sẽ góp phần quan trọng vào việc cải thiện đời sống của nhân dân. Lời kêu gọi “Tết trồng cây” của Bác đã được sự hưởng ứng nhiệt tình của nhân dân cả nước, trở thành một phong trào quần chúng sâu rộng, một nét đẹp trong văn hóa truyền thống Việt nam. Ngày “Tết trồng cây” – Tết Kỷ Sửu 2009 này vừa tròn 50 tuổi….
Những “Tết trồng cây” đặc biệt:
Tết trồng cây năm 1960 Chiều ngày 11/1/1960, trên công trường Công viên Thống Nhất hàng ngàn người từ các đơn vị ở thủ đô Hà Nội đang hăng hái thi đua lao động xã hội chủ nghĩa, làm cho công viên thêm xanh, sạch, đẹp hơn. Những luống hoa và hàng trăm cây xanh được trồng mới, tiếng cười nói, tiếng cuốc xẻng vang cả một vùng. Bỗng có tiếng reo lên: – Bác Hồ! Bác Hồ đến! Hàng ngàn ánh mắt đổ dồn về phía cổng vào, Bác Hồ trong bộ quần áo màu nâu sẫm giản dị, nhanh nhẹn bước xuống xe đi vào trong công viên. Bác tươi cười, giơ tay vẫy chào mọi người. Như có một sức hấp dẫn và sự lôi cuốn kỳ lạ, không ai bảo ai, mọi người trong công viên chạy ùa về phía Bác. Bác đến bên một hố đất rộng, một cây đa nhỏ được đặt xuống hố, Bác nhanh nhẹn xắn tay áo, xúc từng xẻng đất vun vào gốc cây đa trong tiếng vỗ tay cổ vũ của mọi người. Trồng cây xong, Bác ngồi xuống mô đất nhỏ bên gốc cây vừa trồng, nhìn Bác giản dị và gần gũi như một lão nông. Bác giơ tay ra hiệu cho mọi người cùng ngồi, ai cũng náo nức muốn được gần Bác. Bác thân mật trò chuyện với cán bộ công nhân đang thi công trên công trường. Người nói: “Chúng ta ra sức thi đua làm tốt việc xây dựng vườn hoa. Rồi đây công viên hoàn thành, chiều chiều hay ngày chủ nhật các cô, các chú ra công viên hóng mát xem hoa, ngắm cây cỏ, vui chơi giải trí để rồi lại bắt tay công tác, sản xuất hăng hái hơn…”.
Tết trồng cây năm 1965 Những năm đế quốc Mỹ dùng chất độc hóa học và bom cháy hủy diệt cây cối và những cánh rừng ở miền Nam, Bác đã kêu gọi nhân dân miền Bắc trồng cây vì miền Nam ruột thịt: “… Trong lúc giặc dã man rải chất độc màu da cam phá hoại cây cối núi rừng miền Nam, thì ở miền Bắc nhân dân ta thi đua trồng cây gây rừng … Ta trồng cây cho ta và cho cả đồng bào miền Nam nữa.” Sáng ngày 31-1-1965, huyện Đông Anh – Hà Nội tổ chức Tết trồng cây trên toàn tuyến quốc lộ số 3 mà trọng điểm là xã Đông Hội. Mọi người đang hăng hái lao động, người đào hố, người đặt cây… thì Bác Hồ xuất hiện. Nhìn thấy Bác đến bất ngờ, ai cũng sung sướng, xúc động. Người căn dặn: “Các cụ, các cô, các chú trồng cây nào, phải trông nom, tưới tắm cây ấy cho thật tốt. Các cháu nhỏ chăn trâu không được làm hư hại cây…”. Rồi Bác xắn quần cao, đi đến một cái hố cây đã đào sẵn. Bác đặt cây đa xuống hố và sửa cho cây đa đứng thẳng sau đó xúc từng xẻng đất đắp vào gốc cây. Nhìn những lát xẻng xúc đất nhanh nhẹn của Bác, mọi người ai cũng xúc động và thầm mong cho Bác luôn khỏe mạnh.
Tết trồng cây cuối cùng của Bác Hồ – 1969 Mùa xuân Kỷ Dậu năm 1969, sức khỏe của Bác yếu nhiều, việc bố trí để Bác trồng cây ở một địa phương nào đó theo ý của Bác là một vấn đề rất khó khăn. Những người phục vụ Bác rất lo lắng nên nhiều lần đề nghị Bác hoãn lại việc trồng cây. Nhưng Bác rất kiên quyết. Người nói: “Đây là dịp kỷ niệm 10 năm ngày phát động Tết trồng cây nên các chú phải bố trí cho Bác trồng cây ở một địa phương nào đó có nhiều thành tích…” Sau đó, Bác gợi ý chọn xã Vật Lại, huyện Ba Vì, tỉnh Hà Tây là nơi có phong trào trồng cây tốt. Theo kế hoạch đã chuẩn bị, Bác đến địa điểm trồng cây. Đông đảo các đại biểu, các tầng lớp nhân dân đã đứng trên những đồi cây đón Bác. Bác trực tiếp trồng thêm một cây đa. Nhìn những xẻng đất, bình nước Bác tưới mát cho cây, mọi người ai cũng xúc động nghẹn ngào.Trồng cây xong, Bác cùng mọi người quây quần dưới tán bạch đàn và thân mật hỏi chuyện và chúc Tết mọi người. Bác nói: Đất nước này là của chúng ta nên phải thi đua sản xuất giỏi, trồng cây giỏi. Mặt trời đầu xuân ấm áp đã lên cao, ai cũng bùi ngùi lưu luyến chia tay Bác và tất cả mọi người có mặt trong buổi Bác trồng cây năm ấy không ai nghĩ rằng đó là mùa xuân cuối cùng và cũng là cái Tết trồng cây cuối cùng của Bác. Phong trào “Tết trồng cây” do Bác phát động làm cho đất nước thêm xanh, góp phần quan trọng vào việc cải thiện môi sinh, bảo vệ môi trường.
Về Bác Sĩ Alexandre Yersin
Bác sỹ Alexandre Yersin (1863 – 1943) – Người tìm ra Đà Lạt
Sau chuyến công du ở Ấn Độ, toàn quyền pháp Paul Doumer muốn xây dựng một nơi nghỉ dưỡng cho pháp kiều như ở Ấn Độ. Yersin đề nghị nên chọn Đankia – cách Đà Lạt hơn 10 km về phía Tây Bắc.
TIỂU SỬ CUỘC ĐỜI YERSIN
Ngày 22 tháng 9 năm 1863 Alexandre Yersin đã ra đời taị một vùng quê miền nuí ở Navanux – thuộc tổng Vaud – Thụy Sỹ.
Năm 1865, vua Louis XIV hủy bỏ chỉ dụ Nantes không còn đối xử bình đẳng với những người theo giáo phái Calvin như trước. Tổ tiên Yersin bị khủng bố phải rời bỏ vùng quê cha đất tổ vùng Languedoc (miền Nam nước pháp) di cư sang Thụy Sỹ.
Cha cuả Yersin là một giáo viên sinh học, mẹ quê ở Paris, Yersin là em trai trong gia đình có hai chị em. Với tính khiêm tốn trầm lặng thích sống ẩn dật, ông ít nói về đời mình nên hiện nay người ta ít biết về những ngày thơ ấu của ông.
Năm 20 tuổi (1883), Yersin học ngành y tại Lausanne (Thụy Sỹ). Sau đó tiếp tục học tại Marbuorg (Đức) và tốt nghiệp Đại học Paris (Pháp). Từ năm 1886 ông làm việc tại viện Pasteur Paris và cộng tác với bác sĩ Roux tìm độc tố vi khuẩn bạch cầu. Năm 1890, ông được chuyển lại quốc tịch Pháp.
Trong những năm miệt mài nghiên cứu tại viện Pasteur Paris ông đã chứng tỏ là một thiên tài hiếm có, một con người giàu nghị lực ham tìm tòi học hỏi. Tương lai sáng mở ra trước mắt ông. Nhưng Yersin lại hướng về chân trời mới muốn tìm ra lối thoát khỏi cuộc sống hiện tại “tôi luôn luôn mơ ước khám phá đất lạ, thám hiểm khi còn trẻ ta luôn tưởng tượng những đều kì lạ sẽ đến, không có gì là không có thể làm được“.
Thế rồi Yersin bất ngờ rời bỏ ngành vi trùng học – sống đời thủy thủ và thám hiểm – mở đầu một cuộc đời khác kéo dài 50 năm.
HÀNH TRÌNH TỚI VIỆT NAM
Trước hết Yersin nhận lời làm bác sỹ cho một con tàu của công ty vận tải đường biển đến Viễn Đông. Sau sáu tháng hoạt động trên tuyến đường Sài Gòn – Manila (Philippin), Yersin chuyển sang làm việc trên tàu Sài Gòn chạy từ Sài Gòn đến Hải Phòng và ngược lại.
Những tháng đầu tiên trong nghề hàng hải đối với Yersin thật quyến rũ! Yersin chưa từng tiếp xúc với biển cả nhưng trong thời thanh niên, Yersin đã quen với hồ Léman. Khi thuyền lênh đênh trên đại dương, Yersin nhìn lên bầu trời và học cách xác định toạ độ. Khi tàu cập bến, Yersin tập sự cùng kính thiên văn. Trong những năm sau, Yersin say mê thiên văn học và về sau tìm hiểu cả điện khí quyển, quang phổ mặt trời.
Tàu chạy trên tuyến đường Hải Phòng – Sài Gòn, khi tiến lại gần bờ biển, lúc vượt sóng ra ngoài khơi. Dãy Trường Sơn hùng vĩ ở phía Tây hiện ra trước mắt Yersin gợi lên kỷ niệm tuổi học trò. Ngày ấy, Yersin đã cùng các bạn leo lên sườn núi Valais. Dãy Trường Sơn tuy không có những đường nét và màu sắc giống như dãy Alpes nhưng có những hấp dẫn kỳ lạ. Yersin muốn tìm lại những cảm giác thành thực và thân thiết khi khám phá được những điều bí ẩn, đặt chân lên miền đất lạ.
Tháng 7 năm 1891, Yersin cập bến Nha Trang. Ông lên bờ, đi dọc miền duyên hải đến Phan Rí và theo các con đường mòn vượt qua một ngọn đèo cao 1.200 mét gần Di Linh. Từ Di Linh ông định băng rừng đến Sài Gòn tìm ra con đường bộ nối liền Nha Trang với Sài Gòn, nhưng không kịp chuyến tàu đi Hải Phòng nên ông đành bỏ cuộc hành trình, xuống Phan Thiết dùng thuyền buồm ra Nha Trang.
Chuyến thám hiểm đầu tiên ngắn ngủi này đã giúp nhà thám hiểm 30 tuổi làm quen với những khó khăn trên miền núi vùng nhiệt đới – với gió núi – mưa rừng – chịu đựng những con vắt hút máu người – vượt qua những con suối nước chảy như thác đổ…lần tiếp xúc đầu tiên với núi rừng Tây Nguyên cũng đã kích thích Yersin ham muốn thực hiện những chuyến thám hiểm khác.
Ngày 29 tháng 3 năm 1892, từ Nha Trang ra Ninh Hòa, tiến thẳng vế hướng Tây đến Stung-treng trên bờ sông MêKông.
Nhờ sự giúp sức của Pasteur và bộ trưởng giáo dục Pháp; năm 1893, Yersin thực hiện nhiệm vụ thám hiểm vùng núi nằm giữ bờ biển miền Trung và sông Mêkông, vùng thượng nguồn sông Đồng Nai và Sêbangcan mà trước nay ít người biết đến. Rời Sài Gòn ông đã vượt qua thác Trị An đến Tánh Linh, vượt qua sông La Ngà đến Di Linh. Men theo một con đường mòn gần giống như con đường quốc lộ 20 hiện nay. Ngày 21 tháng 6 năm 1893, ông đến thác Prenn và sau đó đặt chân lên Lang Biang.
“Trên đường đi, cao nguyên nhấp nhô cao từ 900 mét đến 1.200 mét khoảng từ 15 km đến 20 km trước khi đến chân núi. Tôi đứng trên một vùng hoàn toàn tơ trụi và cây cỏ. Đất đồi mấp mô khiến tôi cảm giác như đang đi rên một đại dương xao động vì những ngọn sóng khổng lồ. Núi Lang Biang đứng sừng sững ở giữa như một hòn đảo và hình như ngày càng xa dần khi tôi đến gần, dưới chỗ trũng, đất màu đen và đầy than bù. Những đàn nai lớn để yên cho chúng tôi đến gần vài trăm mét, đàn nai vụt chạy ra xa rồi ngoái cổ lại tò mò nhìn chúng tôi.”
Cuối năm 1893, Yersin lại lên cao nguyên Lang Biang, thám hiểm cao nguyên Đắk Lắk – A Tô Pơ (Lào) và ngày 7 tháng 5 năm 1894 về Đà Nẵng.
Năm 1890, bác sĩ Albelt Calmette thiết lập chi nhánh viện Pasteur ở Sài Gòn. Năm 1894, bệnh dịch hạch lan tràn trên khắp miền Đông Trung Quốc. Bác sỹ Calmette đề nghị Yersin đi Trung Quốc nghiên cứu tại chỗ bệnh dịch hạch.
Ngày 15 tháng 6 năm 1894, Yersin đến Hồng Kông và gặp một đối thủ – bác sỹ Kitasatô đã đến Hồng Kông trước Yersin ba ngày. Bác sỹ người Nhật này nổi tiếng về công trình khoa học tìm ra vi trùng uốn ván.Yersin dựng một túp lều tranh bên cạnh bệnh viện và làm việc trong điều kiện thiếu thốn. Chỉ sau năm ngày làm việc, ngày 20 tháng 6 năm 1894, ông đã tìm ra vi trùng bệnh dịch hạch. Qua hệ thống bưu điện của Anh, ông đã gữi những ống nghiệm trực trùng sang Pháp. Trực trùng bệnh dịch hạch đến Pasteur Paris nguyên vẹn và được xác minh, mang tên Yersin (Yersins Pestis).
Năm 1895, Yersin thành lập viện Pasteur ở Nha Trang và điều chế huyết thanh chữa bệnh dịch hạch. Một năm sau, bệnh dịch tái phát ở Trung Quốc, Yersin lại sang Trung Quốc và cứu được nhiều người thoát khỏi căn bệnh hiểm nghèo đã giết 50 triệu người ở thượng cổ.
Yersin trở về Nha Trang, một cuộc đời bắt đầu, nhiều vấn đề đặt ra. Nhận thấy thành phố Nha Trang xây dựng trên một vùng cát trắng không tiện mở rộng những cánh đồng cỏ để nuôi ngựa dùng cho việc điều chế huyết thanh, ông khai phá vùng suối Dầu – cách Nha Trang 10 km về hướng Nam, thành lập một trại chăn nuôi và trồng trọt.
Theo gương các bậc tiền bối, ông lao vào nghiên cứu huyết thanh trị bệnh dịch hạch cho trâu bò. Từ đó, viện Pasteur nha trang nghiên cứu vi trùng động vật và cá bệnh nhiễm trùng gia súc.
Trong một chuyến dừng chân tại Malaysia Và Indonexia, Yersin rất chú ý đến trồng cao su. Năm 1897, ông bắt đầu trồng cao su ở suối Dầu và tám năm sau (1905), hãng Michelia (Pháp) nhận được 1.316 kg mủ cao su đầu tiên. Quan tâm đến phương pháp trồng, khai thác và chế biến cao su, ông đã thiết lập một phòng thí nghiệm nông hóa. Tại đây, những biện pháp chọn giống, cạo mủ và làm đông mũ cao su được nghiên cứu có hệ thống đã giúp rất nhiều cho những người trồng cao su ở Đông Dương.
Thời gian trôi qua, tại trại chăn nuôi và trồng trọt tại suối Dầu ngày càng mở rộng, Yersin nhận chức viện trưởng hai viện Pasteur ở Sài Gòn và Nha Trang.
Từ năm 1902 đến năm 1903, ông ra Hà Nội để thành lập trường đại học Yersin Đông Dương và làm hiệu trưởng đầu tiên.
Năm 1924, ông giữ chức vụ Tổng Thanh Tra Các Viện Pasteur ở Đông Dương
Năm 1933, ông làm viện trưởng danh dự viện Pasteur ở Paris.
Trong thời gian sống ở xóm Cồn (Nha Trang), ông là một người hàng xóm đôn hậu, thường giúp những cụ già và những ngươì chài lưới, thương yêu trẻ con. Ông sống rất giản dị, giàu long nhân ái.
Sau chuyến công du ở Ấn Độ, toàn quyền pháp Paul Doumer muốn xây dựng một nơi nghỉ dưỡng cho pháp kiều như ở Ấn Độ. Yersin đề nghị nên chọn Đankia – cách Đà Lạt hơn 10 km về phía Tây Bắc.
Năm 1899, ông đã tháp tùng Paul Doumer lên Đà Lạt. Sau khi quan sát tại chỗ, Paul Doumer không chọn Đankia làm nơi nghĩ dưỡng nhưng chọn vị trí Đà Lạt hiện nay theo đề nghị của bác sĩ Emile Tardif vì:
– Đà Lạt ở độ cao hơn Đankia.
– Độ dốc của Đà Lạt thoai thoải – không khí của Đà Lạt hợp vệ sinh hơn ở Đankia – có những ngọn đồi nhỏ cách nhau bằng những thung lũng lầy lội.
Khôn khí ở Đà Lạt mát lạnh và ít ẩm hơn ở Đankia vì Đankia nằm gần đỉnh Lang Biang – sườn núi hứng gió ẩm – nhận lượng mưa nhiều hơn – sương mú nhiều hơn (đến 10h sáng sương mới tan).
– Về thực vật: phía Đankia chỉ toàn đồi nhỏ, trong khi Đà Lạt gần rừng thông, không khí vừa mát mẻ vừa thơm ngát hương thông.
– Về giao thông vận tải: Đà Lạt thuận tiện hơn Đankia.
Năm 1914, chiến tranh thế giới lần thứ nhất bùng nổ. Lúc bấy giờ, Hà Lan chiếm độc quyền sản xuất Quinine – phương thuốc duy nhất chữa bệnh sốt rét. Yersin gieo thử hạt Canh Ki Na ở suối Dầu và Đankia. Ông gặp thất bại hoàn toàn ở suối Dầu, nhưng Đankia càng tốn thêm nhiều công sức.
Năm 1917, Yersin trồng cây Canh Ki Na ở Hòn Bà – một ngọn núi gần suối Dầu. Lúc đầu cây tăng trưởng tốt nhưng về sau chết vì đất đai không thích hợp.
Tháng 7 năm 1923 những cây Canh Ki Na tốt nhất ở Hòn Bà được đem lên trồng ờ Đran và thu được kết quả tốt. Ông tiếp tục trồng trên cao nguyên Lang Biang nhỏ và Di Linh.
Năm 1936, cây Canh Ki Na được trồng quy mô lớn ở Lán Tranh và Di Linh – thu hoạch được 30 tấn vỏ với tỷ lệ Quinine Sunfat 7,42%.
Năm 1938, thu được 21 tấn vỏ với tỷ lệ Quinine Sunfat cao hơn (8,5%).
Ngày 28 tháng 6 năm 1935, trường trung học Yersin được khánh thành ở Đà Lạt. Yersin trở về Đà Lạt lần cuối cùng trước khi mất. Nhân dịp này, đáp lại lời phát biểu của một học sinh, ông đã trình bày cảm tưởng khi đặt chân lên cao nguyên Lang Biang: “Không khí mát mẻ đã làm tôi quên đi mệt nhọc và tôi nhớ lại niềm vui được chạy hết tốc lực lên xuống những ngọn đồi như một học sinh trung học trẻ tuổi.”
Trong những năm cuối đời, Yersin vẫn say mê nghiên cứu khoa học – ngành Thiên văn – Vô tuyến điện. Vài tuần trước khi mất, tuy bệnh ngày cành tăng, ông vẫn theo dõi mực thủy triều.
Ngày 1 tháng 3 năm 1943, Yersin thanh thản qua đời, hưởng thọ 80 tuổi để lại niềm thương tiếc sâu sắc. Hàng ngàn người dân Nha Trang đã đưa linh cửu ông đến nơi an nghĩ cuối cùng ở suối Dầu.
Đến Việt Nam trong những năm cuối thế kỷ XIX và nửa đầu XX, Yersin đã làm việc trong bộ máy cai trị của thực dân pháp. Tuy nhiên, những công trình khoa học đa dạng – cuộc sống giản dị – lòng nhân ái và tình yêu Việt Nam của ông vẫn sống mãi trong tâm tư, tình cảm của người Đà Lạt – Nha Trang và trên hành tinh của chúng ta. Thủ đô Hà Nội – thành phố Hồ Chí Minh – thành phố Nha Trang đã đặt tên Yersin cho một con đường trong thành phố. Ở Đà Lạt, con đường dẫn đến trường trung học Yersin cũ hiện nay (trường Cao đẳng Sư phạm) được mang tên nhà bác học Pháp – người đã mang nặng nghĩa tình Việt Nam và để lại những kỷ niệm khó quên ở Đà Lạt: Alexandre Yersin.
Ba khu tưởng niệm bác sĩ Alexandre Yersin:
– Thư viện của Bác sĩ Yersin tại viện Pasteur Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa.
– Chùa Linh Sơn, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa (phòng làm việc của bác sĩ ở Suối Dầu trước đây).
– Phần mộ của Bác sĩ Yersin, xã Suối Cát, huyện Diên Khánh, tỉnh Khánh Hòa.
Năm 1891, ông đến Nha Trang xây dựng cơ sở nghiên cứu, thí nghiệm vi trùng học đầu tiên ở Việt Nam. Đầu năm 1899, nơi đây đã trở thành Viện Pasteur Nha Trang.
Sau hơn 50 năm sống và làm việc vì khoa học ở Viện Pasteur Nha Trang (1891 – 1943) Yersin đã cống hiến cho khoa học 55 công trình nghiên cứu có giá trị.
Các chức vụ ông đã đảm nhận:
– Viện trưởng Viện Pasteur Nha Trang.
– Viện trưởng Viện Pasteur Đông Dương.
– Hiệu trưởng Trường Đại Học Y Khoa Hà Nội.
– Tổng thanh tra các Viện Pasteur Đông Dương.
– Viện sỹ Viện Hàn lâm Khoa học Pháp.
– Chủ tịch danh dự Hội đồng Y khoa Viện Pasteur Paris.
Cập nhật thông tin chi tiết về Sen Ở Làng Sen Quê Bác, Tháng Năm… trên website Xnko.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!